Diễn Đàn Hội Ngộ
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.
Latest topics
» Hơn 3000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểu
by phambachieu Yesterday at 10:03 pm

» Một điểm dừng chân trên đường hoingo
by ChinhNguyen/H.N.T. Sun Mar 17, 2024 3:26 pm

» Những Giòng Cảm Tác Thơ THÁNG 1,2/24
by phambachieu Wed Mar 06, 2024 4:04 pm

» Cảm tác đầu Xuân
by ChinhNguyen/H.N.T. Sat Feb 24, 2024 2:59 pm

» TÁCH CÀ PHÊ DẦU NĂM (thơ dp)
by dangphuong Fri Feb 16, 2024 4:07 am

» VALENTINE (Thơ dp)
by dangphuong Fri Feb 16, 2024 3:59 am

» Mừng Xuân Giáp Thìn 2024
by phambachieu Fri Feb 09, 2024 1:52 am

» Hoài niệm nhà thơ Song An Châu
by dangphuong Mon Jan 29, 2024 12:29 am

» Chớm yêu 2
by ChinhNguyen/H.N.T. Sun Jan 21, 2024 3:06 pm

» Hi vọng cuối đời
by ChinhNguyen/H.N.T. Thu Jan 11, 2024 2:10 am

» Atlanta Mùa Lễ Giáng-sinh và Năm mới 2023-24
by ChinhNguyen/H.N.T. Thu Dec 28, 2023 11:22 pm

» Tiếng Đai Hàn
by Admin Wed Dec 27, 2023 4:15 am

» Trích Thơ&Tuỳ bút về Lễ Giáng-sinh
by ChinhNguyen/H.N.T. Wed Dec 20, 2023 2:22 pm

» Những Giòng Cảm Tác Thơ Tháng 11/2023
by ChinhNguyen/H.N.T. Tue Dec 12, 2023 3:34 pm

» Trang thơ mới
by dangphuong Thu Dec 07, 2023 12:04 am

» Những giòng cảm tác thơ tháng 10.2023 Đoạn 2
by ChinhNguyen/H.N.T. Wed Dec 06, 2023 11:52 pm

» Chùm thơ "Có lẽ..."
by dangphuong Wed Dec 06, 2023 7:39 pm

» Hoa Dừa trắng - Ảnh & Thơ
by dangphuong Wed Dec 06, 2023 7:36 pm

» Những giòng cảm tác thơ tháng 10.2023 Đoạn 1
by dangphuong Wed Dec 06, 2023 7:28 pm

» Tâm thức mùa Đông
by ChinhNguyen/H.N.T. Tue Nov 28, 2023 3:09 pm

» Buồn Tàn Thu
by ChinhNguyen/H.N.T. Thu Nov 23, 2023 10:24 am

» THUONG TIEC LQC
by ChinhNguyen/H.N.T. Thu Nov 16, 2023 10:00 am

» TIN BUỒN!
by dangphuong Thu Nov 16, 2023 5:56 am

» Cách xả stress trong cuộc sống
by thudayne Wed Nov 08, 2023 11:30 am

» Du học nước ngoài cần kỹ năng gì
by thudayne Wed Nov 08, 2023 11:02 am

» Thế giới thần tiên của ông-cháu III
by ChinhNguyen/H.N.T. Sun Nov 05, 2023 1:22 pm

» Nói đi...- Tình thơ!
by ChinhNguyen/H.N.T. Thu Nov 02, 2023 1:50 pm

» TIẾNG THƠ
by TC Nguyễn Wed Nov 01, 2023 2:30 pm

» Những giòng cảm tác thơ tháng 9.2023_Đoạn 2
by ChinhNguyen/H.N.T. Tue Oct 24, 2023 1:32 pm

» Lời muốn nói
by Tú_Yên Sat Oct 21, 2023 12:36 pm

» Những giòng cảm tác thơ tháng 9.2023 _Đoạn 1
by ChinhNguyen/H.N.T. Mon Oct 16, 2023 8:59 pm

» Tội tình chi ?
by ChinhNguyen/H.N.T. Fri Oct 13, 2023 2:17 pm

» THƯ gởi một bạn thơ.........
by ChinhNguyen/H.N.T. Tue Oct 10, 2023 1:22 pm

» Tập thơ "Một thoáng Phù vân"
by Tú_Yên Mon Oct 09, 2023 1:13 pm

» Tú_Yên vẽ
by Tú_Yên Mon Oct 09, 2023 1:02 pm

» Tranh và Thơ
by Tú_Yên Mon Oct 09, 2023 12:58 pm

» Thơ Haiku (Tú_Yên)
by Tú_Yên Mon Oct 09, 2023 12:54 pm

» Ỡm ờ … (thơ ĐL dp)
by dangphuong Fri Oct 06, 2023 10:16 pm

» CHỜ (thơ ĐL dp)
by dangphuong Tue Oct 03, 2023 5:58 am

» Tặng khúc
by lyquangchinh Mon Oct 02, 2023 7:14 am

» Để tốt nghiệp đại học loại giỏi, cần phải tự học home school nhiều
by thudayne Sun Oct 01, 2023 7:22 pm

» SỐNG MỘT MÌNH (thơ ĐL dp)
by dangphuong Sun Sep 24, 2023 3:53 am

» Thu cảm
by dangphuong Sun Sep 24, 2023 3:35 am

» THỜI GIAN (thơ ĐL dp)
by dangphuong Sun Sep 17, 2023 11:06 pm

» HÌNH NHƯ (thơ dp)
by dangphuong Sun Sep 17, 2023 5:35 am

» VẪN CÒN TIN YÊU (thơ dp)
by ChinhNguyen/H.N.T. Sat Sep 16, 2023 8:57 am

» SINH NHẬT HỘI NGỘ (thơ ĐL dp)
by ChinhNguyen/H.N.T. Mon Sep 11, 2023 12:29 pm

» Chúc Mừng Sinh Nhật Hội Ngộ 2023
by ChinhNguyen/H.N.T. Mon Sep 11, 2023 12:24 pm

» XIN MÃI DẤU YÊU (thơ ĐL dp)
by dangphuong Fri Sep 08, 2023 6:38 pm

» Những giòng cảm tác THƠ tháng 8/2023 (tt)= Đoạn 3
by ChinhNguyen/H.N.T. Fri Sep 08, 2023 1:52 pm

» Những giòng cảm tác THƠ tháng 8/2023 (tt) Đoạn 2
by ChinhNguyen/H.N.T. Fri Sep 08, 2023 1:46 pm

» Những giòng cảm tác THƠ tháng 8/2023 Đoạn 1
by ChinhNguyen/H.N.T. Fri Sep 01, 2023 12:58 pm

» WinWin nhà Tôi
by Tú_Yên Fri Sep 01, 2023 11:25 am

» Truyện thơ "Lời cho Mây"
by Tú_Yên Fri Sep 01, 2023 11:22 am

» Truyện Thơ_Cháu của Bà
by Tú_Yên Fri Sep 01, 2023 11:17 am

» NIỀM NHỚ KHÔN NGUÔI (thơ dp)
by dangphuong Thu Aug 31, 2023 4:41 am

» Phép lạ (thơ của Anhdao Vuong)
by dangphuong Thu Aug 31, 2023 4:25 am

» ĐI QUA BÓNG TỐI (thơ ĐL dp)
by dangphuong Wed Aug 30, 2023 5:49 am

» MỘT THUỞ GHÉ HỒ TRÀM (thơ ĐL dp)
by dangphuong Wed Aug 30, 2023 3:19 am

» MÙI QUÊ HƯƠNG (thơ dp)
by dangphuong Tue Aug 29, 2023 11:16 pm

» Mặc mưa nắng … (thơ ĐL dp)
by dangphuong Mon Aug 28, 2023 6:53 pm

» NỖI ĐỚN ĐAU CHÔN KÍN (thơ dp)
by dangphuong Mon Aug 28, 2023 6:49 pm

» Hoàng-hạc-lâu âm vọng 1
by ChinhNguyen/H.N.T. Mon Aug 28, 2023 3:07 am

» XÓT THƯƠNG (thơ ĐL dp)
by dangphuong Sat Aug 26, 2023 4:26 am

» HỒNG NHAN TRI KỶ (thơ dp)
by dangphuong Sat Aug 26, 2023 2:53 am

» Những giòng cảm tác THƠ tháng 7/2023 [Đoạn 3]
by ChinhNguyen/H.N.T. Wed Aug 23, 2023 1:44 pm

» TÌNH YÊU ĐÔI LỨA VÀ TÌNH BẠN (bài viết của dp)
by ChinhNguyen/H.N.T. Tue Aug 22, 2023 12:10 pm

» Những giòng cảm tác THƠ tháng 7/2023 [Đoạn 2]
by ChinhNguyen/H.N.T. Sun Aug 20, 2023 12:50 pm

» Những giòng cảm tác THƠ tháng 7/2023 [Đoạn 1]
by dangphuong Fri Aug 18, 2023 2:53 am

» Thơ HaiKu (CN)
by dangphuong Wed Aug 16, 2023 2:23 am


Go'c _ Văn học Viêt Nam

3 posters

Go down

Go'c _ Văn học Viêt Nam Empty Go'c _ Văn học Viêt Nam

Bài gửi by CoMay Wed Sep 30, 2009 12:53 am

Bích Khê, “thi sĩ thần linh” - “thơ lõa thể”
- Bích Khê đã đặt Dâm ngang hàng với Đẹp, và như thế với ông đó là một phạm trù thơ. Tên phạm trù đó, loại thơ đó Bích Khê cũng đã đặt: thơ lõa thể. Và ông tự nguyện hiến mình cho loại thơ này.

Thi sĩ Bích Khê (1916-1946)

I. Xác thịt lên ngôi thần
Nàng Thơ của Bích Khê là một người “đẹp và dâm”. Chân dung nàng luôn được thi nhân trình bày ở dạng lõa thể, khỏa thân. Nhìn vào đó ta thấy Nàng đẹp.
Đẹp một cách tổng quát:

Nàng là tuyết hay da nàng tuyết điểm
Nàng là hương hay nhan sắc lên hương
Mắt ngời châu rung ánh sóng nghê thường
Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc
Đêm u huyền ngủ mơ trên mái tóc
Vài chút trăng say đọng ở làn môi (I)
(Lõa thể)

Đẹp ở “cặp đùi non, một vẻ tơ mơ một vẻ ngon”.
Đẹp ở cặp mắt “xanh tợ ngọc”, “đa tình ngời sắc kiếm”, “kho tàng muôn châu báu”. Bích Khê thấy Hai mắt ấy chói hào quang sáng ngợp / Dẫn ta vào thế giới thiêng liêng. Đó là ánh sáng soi đường thơ cho nhà thơ. Cặp mắt và bầu vú là hai ám ảnh thơ của Bích Khê, xuất phát từ cách nhìn lõa thể thơ của ông. Nhiều nhà thơ mới đã ca ngợi đôi mắt phụ nữ, nhưng nói đến vú thì hình như chỉ Bích Khê là một.
Đẹp ở đôi bầu vú:

Những vú nõn: đồi cong thon, nho nhỏ
Với đôi dòng suối sữa trắng như tinh
(Sắc đẹp)
Vẻ chi mãnh liệt nhưng êm ái
Trong cặp tuyết lê ướm dậy thì
(Châu)

Bích Khê nói nhiều đến đôi vú Người Nữ, của Nàng Thơ. Vì với ông đó là nguồn thơ. Ông làm thơ tức là ông “nút” vú, “nút” tinh chất của Người Nữ, của Nàng Thơ, là tìm chất quý thơm tinh mùi khoái lạc. Động từ “nút” của tiếng địa phương miền Trung được dùng nhiều trong thơ Bích Khê là liên quan đến cảm hứng cảm xúc này của nhà thơ. Thêm một trạng từ địa phương nữa thường được dùng đi cùng động từ này - “nư”. Nút cho nư, đã nư, tức là nút đến no nê, tràn đầy, thỏa mãn. (Hàn Mặc Tử cũng hay dùng những từ này).
Với cô gái trong một bức tranh lõa thể:

Hai vú nàng! Hai vú nàng! Chao ôi!
Cho tôi nút một dòng sâm ngọt lộng

Với “người em lãng mạn” trong một bức ảnh:
Anh tính ôm chầm lấy mắt mơ
Lấy môi lấy má... lấy ngây thơ
Để anh nút ớn mùi hương ấm

Của một tình yêu giận hững hờ
Với “một cô đào hát bộ”:
Tôi chợt ôm cô trong giấc mộng
Nút bao thanh khí, đã nư thèm...

Cả với một cảnh vật mùa xuân Bích Khê cũng “vú hóa” theo cảm hứng này: “Nâng lên núm vú đồi / Sữa trăng nhi nhỉ giọt”. Từ đó mùa xuân mới chảy vào thơ ông thành xuân tượng trưng. (So sánh với Hàn Mặc Tử cũng viết về đồi và trăng: Ngả nghiêng đồi cao bọc trăng ngủ / Đầy mình lốm đốm những hào quang. Hai cách viết thơ khác hẳn nhau, một bên là đi vào liên hệ bên trong, một bên là nhân hóa cảnh tượng bên ngoài).
Đẹp ở da thịt “nức một đường thơm một điệu êm”, tỏa một mùi hương “còn thơm hơn chất xạ”, khiến thi nhân muốn “Cho ta xin trong một tối du dương / Muôn thớ đàn run trên da thịt tuyết”. Da thịt tuyết này còn hiện ra ở tràng cánh trắng của đồ mi hoa, trong khi Đài nộn nhụy hóa nguồn trinh tinh khiết. Và Bích Khê phổ cả cảm hứng nhục thể vào bầu trời khi từ đỉnh Ngũ Hành Sơn nhìn lên:

Có ai biết trên cao
Da trời màu thịt sứa
Da trời se chất sữa
Truyền cảm hứng mênh mông
(Ngũ Hành Sơn - bài hậu)

Đến cả mộng của ông cũng là “mộng lạ”. Các nhà thơ mới hay mộng, mà mộng gặp tiên, gặp người đẹp, chuyện ấy đã thường. Bích Khê cũng mộng, trong mộng cũng gặp các nàng “giai nhân hiện dưới bóng hằng nga” (một motiv quen thuộc, như đã thành một cliché của thơ lãng mạn), rồi cũng tả sắc đẹp của người đẹp ở mắt môi dáng đứng dáng đi. Đột một cái, hai câu kết bài “Mộng lạ”: Ôi đi! Đoàn tiên lột khỏa thân / Hoan hô xác thịt chiếm ngôi thần. Thế là tiên đã thành người trần. Mộng đã thành thực. Thơ tiên đã thành thơ phàm. Ở một bài khác (Hiện hình) trước khi thấy Một người thiếu nữ hiện trong trăng thì thi nhân đã ngửi thấy Thơm tho mùi thịt bắt say ngà! Ông tự nhận Hồn tôi mất cả đồng trinh vì mê luyến những hình thiên nga. Cho nên trong một lần Mơ tiên ông đã những muốn đi cướp mây trời / vén ra cho thấy một vài nường tiên để coi hồn đương say nghiền / đã nư khoái lạc trong miền chiêm bao. Khoái cảm nhục thể của Bích Khê quả là mạnh trong thơ ông. Đến mức một trái cây như trái măng cụt cũng thành ra da thịt người dưới mắt ông, múi mát tợ thịt thơm, và ăn nó như là bú vú vậy, mùi sữa mớm vô răng.
Bích Khê có hẳn một bài thơ đặt tên là Xác thịt:

Tôi vồ người như một miếng mồi ngon
Miệng ngậm hờn riết chặt lấy môi son
Mắt đổ lửa lườm qua làn sóng sắc...
Tôi giật nẩy rồi cười lên sặc sặc
Hai tay cào đôi vú trắng như bông

Hàn Mặc Tử cho rằng đọc những vần thơ ấy “giây thần kinh và gân huyết ta rung động say mê bởi những làn khoái lạc của xác thịt nóng, thơm, ran ran lên cả người” (II).

Như vậy, xác thịt được đặt lên ngôi thần, được đưa vào ngôi chủ thơ. Đó là Bích Khê. Ông “hoan hô” cái sự đó, nghĩa là ông thấy ở đó nên thơ và đáng thơ.
Nàng thơ của Bích Khê hiện hình trong thơ ông qua tên gọi phiếm chỉ những người phụ nữ khác nhau. Duy chỉ có một nàng được ông gọi thẳng tên và nhắc đến nhiều lần với niềm yêu thương, trân trọng. Đó là nàng Xuân Hương.
Ông gặp nàng ở bến sông Ngân:

Ô! Nàng Xuân Hương ngực để trần
Ngâm bài “Vấn nguyệt” tiếng trong ngần
Nhìn xuống nhân gian cười như điên
(Nghê thường)

Ông muốn xuống địa ngục trong cơn ăn mày cảm hứng “Đặng ngủ nhờ một đêm với Xuân Hương”. Ông nằm mộng “Thì mộng: Xuân Hương nường đã đến / Thưa cô, dáng nguyệt tuyết còn vương”.
Và ông có hẳn một bài thơ nhan đề Hồ Xuân Hương mời nàng nữ sĩ về làm vợ mình, gọi bà là người vợ trong thơ. Ông đồng điệu tri âm với nữ sĩ trong loại thơ đặc sắc của bà mà chắc ông muốn học theo: Văn chương quán thế không ai biết / Trong mộng mình về thưởng với tôi. Xuân Hương trong mắt Bích Khê vẫn mãi đẹp.

Đêm nay nửa gối nghiêng nghiêng mộng
Muôn dặm người xa đã thấy về
Xanh liễu ngoài sân vừa đổi biếc
Màu thi sắc lá đọ dung nghi

Phải chăng Bích Khê thấy ở Hồ Xuân Hương sự đồng điệu với ông trong quan niệm thơ lõa thể - đẹp và dâm? Nàng thơ là người đẹp, nhưng cái đẹp đó phải được thức dậy, được sống động ở nhục thể, ở da thịt, ở ân ái. Có là mộng, là thiên tài, thì cũng phải Trên hỗn độn khỏa thân. Thơ, với Bích Khê, là da thịt biến ra thơm, là Bắn tinh ra trộn trạo giữa nguồn hương khi Cả địa ngục đi vào trăm lỗ hổng, là Hợp tinh khí chảy ra thành chất ngọc. Ông nói thẳng ra những điều Hồ Xuân Hương thể hiện lấp lửng hai mặt. Ông tuyên bố:

Ôi! say khướt mới dào muôn ý tứ
Ôi! điên rồ mới ngợp ánh chiêm bao
Ôi! dâm cuồng mới biết giá trăng sao! (III)

Duy tân thơ của Bích Khê, vì thế, là thơ lõa thể.

II. Thơ lõa thể
Sự đậm đặc những hình ảnh, cách nói về thân xác và hoạt động thân xác ở thơ Bích Khê như ta đã thấy không hề là ngẫu nhiên. Bích Khê có lẽ là nhà thơ ‘ca tụng thân xác” say sưa và nồng nhiệt nhất thơ Việt. Có thể có yếu tố phân tâm học bệnh lý của Bích Khê ở đây. Nhưng cái chính, đó là một quan niệm thơ của ông.

Go'c _ Văn học Viêt Nam Images961685_Renoir_After-the-Bath_1888
Sau khi tắm, tác phẩm của Auguste Renoir (1841-1919)
Văn học lãng mạn Việt Nam (Tự Lực Văn Đoàn và Thơ Mới) có một đóng góp cách tân lớn là xác lập và đề cao cái đẹp thể chất của con người. “Dâm” trong “đẹp và dâm” của Bích Khê có thể hiểu theo nghĩa này, như những câu thơ, đoạn thơ tôi dẫn ra trên đây đã cho thấy. Nhưng như đã nói, mệnh đề này còn là quan niệm thơ của Bích Khê, và như thế để hiểu rõ nó thì cần đặt nó vào hệ thống của “trường thơ Bình Định”. Hàn Mặc Tử chủ trương thơ Điên. Chế Lan Viên làm thơ Loạn. Thơ Điên, thơ Loạn, “cái gì của nó cũng tột cùng”, “cái gì nó nói đều có cả” (Chế Lan Viên). Bích Khê ở trong môi trường này cũng sẽ làm thơ theo không khí và tinh thần đó. Tập Tinh huyết của Bích Khê là do Hàn Mặc Tử đề tựa sau khi đã “khích” bạn mình sáng tác “đợt hai” và Hàn đã rất ca ngợi đợt sản phẩm mới này của bạn (IV). Tinh huyết có ba phần: Nhạc và lệ, Đẹp và dâm, Cuồng và ánh sáng, nhưng tôi thấy tinh thần của phần giữa là quán xuyến cả tập. Như vậy có thể nói Bích Khê làm thơ Dâm, hiểu theo nghĩa ông phơi mở và đề cao thân thể phụ nữ và các hoạt động thân thể mà ông tụng ca là Đẹp, là Thơ. Giống như thơ Hồ Xuân Hương bị coi là dâm nhưng đó thực là thơ ca ngợi vẻ đẹp cơ thể phụ nữ và đòi quyền sống cho thân xác con người trong tình yêu đôi lứa. Ở đây không cần phải biện hộ gì cho chữ Dâm cả, Bích Khê đã đặt Dâm ngang hàng với Đẹp, và như thế với ông đó là một phạm trù thơ. Tên phạm trù đó, loại thơ đó Bích Khê cũng đã đặt: thơ lõa thể. Và ông tự nguyện hiến mình cho loại thơ này.

Thơ lõa thể! Giai nhân tuần trăng mật
Nữ thần ơi! Ta nô lệ bên người

Điên - Loạn - Dâm, có thể coi đó là đặc trưng của “trường thơ Bình Định” với nghĩa bộc lộ hết mình và tột cùng, cả thể chất và tinh thần, trong cơn sáng tạo quyết liệt. Bởi thế, đọc thơ họ, một nhà phê bình nhạy cảm và tinh tế như Hoài Thanh cũng phần nhiều chịu bó tay. Ông “mệt lả” khi theo Hàn Mặc Tử. Ông thấy Chế Lan Viên là “niềm kinh dị”. Với Bích Khê ông thú nhận là đành “kính nhi viễn chi”. Tất nhiên, phải nói thêm ở đây, mỹ cảm của Hoài Thanh là nằm trọn trong chủ nghĩa lãng mạn, mà các nhà thơ “trường thơ Bình Định” thì ít nhiều đã vượt sang chủ nghĩa tượng trưng.

Thơ lõa thể, đó là hồn và xác. Đó là lãng mạn và tượng trưng. Thơ Mới đến Bích Khê và nhóm thơ Bình Định đã vượt qua những cảm xúc lãng mạn thời kỳ đầu để tiến tới những biểu hiện của tượng trưng, siêu thực về sau. Theo nhà nghiên cứu Đỗ Đức Hiểu, Thơ Mới Việt Nam (xét dưới góc độ: “Sự tương hợp giữa Thơ Mới và Thơ Pháp trong cuộc giao thoa của hai văn hóa Việt Nam và Pháp nửa đầu thế kỷ XX”) có hai làn sóng. Làn sóng thứ nhất “chịu ảnh hưởng chủ yếu của thơ lãng mạn Pháp nửa đầu thế kỷ XX”. Lớp nhà thơ thuộc làn sóng này viết diễn cảm. Làn sóng thứ hai “chịu tác động sâu sắc của Baudelaire và những nhà thơ tượng trưng chủ nghĩa Pháp”. Lớp nhà thơ của làn sóng này viết diễn đạt cái tương hợp (V). Bích Khê là nhà thơ mới thuộc làn sóng thứ hai. Đẹp và dâm, vừa là sự đối nghịch, vừa là sự tương hợp. Thơ cũng vậy. Thơ lõa thể của Bích Khê là vậy.

Có hiểu thế ta mới hiểu vì sao bài thơ nhan đề Trái tim của Bích Khê lại kết thúc bằng hai câu thơ có hai gạch đầu dòng, trong đó câu cuối cùng rất gây “sốc” khi mới đọc qua (và có thể là “tục” nữa nếu ai muốn nghĩ thế).

- Yêu bằng mộng là mơ tim sáng láng
- Đây sự thực trần truồng nằm giữa háng!

Hai cái gạch đầu dòng cho phép hiểu hai câu thơ này như một cặp câu đối thoại. Ở đoạn hai của bài thơ đã có cuộc đối thoại của “tôi” với “cô”. Tôi ăn mày chỉ một trái tim thôi / Lạy tứ hướng cô mới chịu cho tôi / Cô vùng vằng là tôi không có thả... Tiếp đó là hai câu độc thoại: Mình say chưa? Mình đã thật say sao / Có lảo đảo, có điên cuồng đấy chứ? Và sau ba câu để trong ngoặc đơn vừa như giải thích, vừa như tuyên ngôn mà tôi đã dẫn ở trên (Ôi! say khướt...) là đến hai câu gạch đầu dòng này kết thúc bài thơ. Có thể hiểu câu Yêu bằng mộng... là lời cô gái chăng, và câu Đây sự thực... là lời “tôi”-chàng trai chăng. Cũng có thể hiểu cả hai câu là hai ý nghĩ vật lộn, đan xen trong tâm trí của ‘tôi” chăng. Hiểu cách gì thì cũng thấy toát lên một ý là Bích Khê trong thơ rất ám ảnh và ám gợi thân xác, nhục thể. Ngay trong bài này đã có câu Đây xác thịt ớn lên vì đã mệt. Đọc kỹ cả bài thơ Trái tim thì thấy đó như không phải nói trái tim, mà nói chuyện thân xác.
Yêu thực là yêu bằng cả tình cảm và nhục thể. Có lẽ đối với Bích Khê thơ đẹp là thơ phải có dâm, là mộng cộng sự thực. Có thể thấy rõ điều này qua một phép so sánh hai bài thơ của Bích Khê và Hàn Mặc Tử, hai người bạn thơ gần gũi thân thiết và có nhiều điểm tương đồng. Cả hai bài cùng viết về đề tài tân hôn, cùng đều bốn khổ. Nhưng cảm hứng thì khác hẳn. Hàn Mặc Tử nghiêng về mộng nhiều hơn, sợ khi đã qua đêm tân hôn rồi thì Không còn ý nhị ban đầu nữa / Sẽ chán chường và sẽ chán chê.

Cho nên tôi tưởng tối tân hôn
Chưa tới, còn xa để được buồn
Để sống trong niềm thương nhớ đã
Để còn mường tượng đến giai nhơn (VI)

Một tâm trạng rất lãng mạn chủ nghĩa! Tâm trạng này của Hàn Mặc Tử cũng là của Vũ Hoàng Chương trong bài thơ cũng có tên là Tối tân hôn. Họ Vũ coi đó là sự bắt buộc rời xứ Mộng, là từ thiên giới thanh cao phải quay về hạ giới nhơ bẩn. Tối tân hôn là thời điểm mộng chết.

Hai xác thịt lẫn vào nhau mê mải
Chút thơ ngây còn lại cũng vừa chôn
Khi tỉnh dậy, bùn nhơ nới Hạ giới
Đã dâng lên ngập quá nửa linh hồn (VII)

Bích Khê thì khác, ông nhìn thẳng và phơi bày sự thực: Họ tưởng tân hôn êm ấm lạ / Không hay sao ốm lả hoa tàn... / Họ tưởng tân hôn êm ấm lạ / Không hay xuân kín vỡ màn trinh... Và thi nhân chúc mừng đôi lứa tân hôn:

Mộng rớt đêm nay như chất ngọc:
Người ta say nghiến những men tình
Tôi hoan hô - phút giây thần diệu
Chết giả nhưng cười trắng thủy tinh

Có ẩn ức tâm lý gì ở đây không, nhưng về thơ thì rất baudelaire! Và cũng như lần đầu hoan hô xác thịt, lần này ông lại hoan hô tối tân hôn. Với ông, những gì liên quan đến nhục thể là đáng ngợi ca và đáng làm thơ.

Hàn Mặc Tử gọi Bích Khê là “thi sĩ thần linh”. Ông cho thơ Bích Khê ở tập Tinh huyết có ba tính cách: 1) Thơ tượng trưng, 2) Thơ huyền diệu, và 3) Thơ trụy lạc. Nhận xét về thơ trụy lạc của bạn mình, Hàn viết: “Ở địa hạt dâm cuồng này, ta thấy thi sĩ Bích Khê hoàn toàn là Baudelaire. Vì trong tác phẩm chàng, gợi dục tình thì ít, mà làm cho người ta ghê rợn đến gớm guốc cái cảnh trần truồng khả ố thì nhiều” (VIII).

Điều này không hẳn đúng. Loại thơ nhục thể của Bích Khê một mặt, thể hiện niềm khát sống, niềm hoan lạc trần thế của con người nói chung, của chính nhà thơ nói riêng. Mặt khác, Bích Khê đã nâng khoái cảm nhục thể ấy lên thành một nguồn cảm hứng, một mỹ học thơ. Thơ “lõa thể” của ông đọc lên không thấy gợi dục tình theo hướng xấu xa, điều này Hàn Mặc Tử nói đúng, nhưng cũng không hề gợi cảm giác ghê rợn, gớm guốc. Đọc chúng, ta được khoái cảm tổng hợp của sự tương giao âm thanh, màu sắc, hương thơm như một đặc tính cốt yếu của thơ tượng trưng. Tính chất “thần linh” của Bích Khê, nếu có, thì không chỉ ở những bài thơ huyền diệu, siêu thoát, mà ở cả chỗ này nữa: ông nói tục mà thanh, ông nói những điều khó nói mà nói được một cách tự nhiên, thanh thoát. Ta hiểu thêm một lý do nữa vì sao ông thích thú và gần gũi với Hồ Xuân Hương đến vậy. Và ta cũng hiểu vì sao Bích Khê lại gọi Baudelaire là “Vua Thi Sĩ”, vì ông đã học được bao nhiều mùi thi vị ở tác giả Hoa Ác (Les Fleurs du Mal):

Có những mùi hương mát như da thịt trẻ con
Êm nhẹ như tiếng sáo, xanh mướt như cỏ non
Và những mùi hương oanh liệt, phong phú và trụy lạc

- Tỏa khắp không gian như những cái vô hạn, vô cùng
Như nhựa thơm, như xạ, như hương trầm
Hát ca những khoái lạc của tinh thần và thể xác (IX)
(Bản dịch của Vũ Đình Liên)

và ông muốn phà hơi lên cho mùi thi vị đó từ Baudelaire truyền nhiễm thấu trần ai (Ăn mày).
Cuối cùng, tất cả tan hòa, khi Nàng bước tới...
Nàng! nàng! nàng! không có nữa châu thân
Xác là mộng mà tình là tuyệt đích
Hỡi không gian! hãy tan ra tiếng địch
Của lòng yêu ca ngợi tuyệt vời cao
Hỡi trần gian! hãy chết ngột trong sao
Cho chân lý ngời ra như lưỡi kiếm
Cho tình ta xô dồn sang cực điểm
Và hào quang khiêu vũ với hào quang...

Thân xác, nhục thể tắm gội trong một tâm hồn mang khí vị thần linh của thi sĩ đã biến thành hào quang lung linh. Thơ lõa thể của Bích Khê đã phát quang như vậy. Và đó là phép thơ riêng của ông. Một phép thơ đã để lại những lời thơ đầy hơi hám, nghĩa là có mùi vị, nghĩa là không bị tiệt trùng, nghĩa là sống, mà Bích Khê tin chắc là tay khách đa tình sẽ chuyển trao. Niềm tin của ông đã thành sự thực. Thơ lõa thể của ông một thời gian dài bị im lặng, nay được đem ra đọc, và còn nói được nhiều điều cho thơ và các nhà thơ hôm nay.
Phạm Xuân Nguyên
(Nguồn từ VNN )
CoMay
CoMay

Tổng số bài gửi : 1316
Join date : 14/09/2009
Đến từ : Đất Mẹ

Về Đầu Trang Go down

Go'c _ Văn học Viêt Nam Empty Re: Go'c _ Văn học Viêt Nam

Bài gửi by CoMay Wed Sep 30, 2009 3:43 am

Tục hóa - Quay về để tiến tới
PGS.TS Trần Ngọc Vương


1. Cái thiêng/ cái tục như những phạm trù mỹ học và hành trình của cái tục trong văn học viết Việt Nam

Cái thiêng hay cái tục, chất thánh hay chất phàm trước hết là những khái niệm mang tính chất tôn giáo, tín ngưỡng, là những phạm trù tôn giáo học. Nhưng từ rất sớm, chúng cũng đã kịp chuyển hóa thành những phạm trù văn hóa, và liền ngay đó, là những phạm trù đạo đức. Thật khó mà tìm thấy một tộc người nào đó từng tồn tại trên mặt đất mà trong nhận thức, thể hiện qua ngôn ngữ, lại không có những từ ngữ để biểu hiện những quan niệm mang tính đối biệt ấy.

2.
Cái tục, theo nghĩa rộng nhất chính là cái đời thường, cái hàng ngày, tồn tại trong mối quan hệ vừa đối lập, vừa gián cách lại vừa bị thống trị bởi cái thiêng, cái linh thánh, nghĩa là luôn luôn bị xác định là cái không mẫu mực, không chính thống, cũng có nghĩa là ít hoặc không có giá trị

Không có gì khó khăn để nhận ra rằng với những nghĩa cơ bản như thế, cái tục bao hàm những nội dung nằm ngoài sự thừa nhận của các chính thể mà cũng nằm ngoài “giáo lý” của các tôn giáo. Về phương diện tri thức, học vấn và thành quả sáng tạo tinh thần, cái tục luôn là cái không chính thống, không bao giờ được xếp vào hàng những “khuôn mẫu, mực thước”.


3.
một nền văn học đến giai đoạn trưởng thành đương nhiên phải tự tìm lấy đường đi cho bản thân nó, và những gì vốn là tất yếu trong các nền văn học hoàn chỉnh cũng sẽ lần lượt hiện hình trong nội hàm của nó như là điều không thể khác. “Cái tục”, trong tình huống này cũng là “cái tại chỗ”, “cái bản địa”, “cái cụ thể lịch sử, trực quan sinh động”, “cái mang bản sắc” – một tiêu chí vô cùng quan trọng đối với bất cứ nền văn học đáng kể nào.

Nguyễn Trãi, theo quan sát của tôi, là tác giả quan trọng đầu tiên đã mang “cái tục” – theo nghĩa rộng nhất của khái niệm - vào văn học viết dân tộc. Tầm vóc và tố chất nghệ sĩ trong bậc vĩ nhân này quả cũng là một bình diện gây kinh ngạc. Ông là tác giả văn học viết Việt Nam đầu tiên đưa vào sáng tác của mình hàng loạt những chất liệu và cảm quan thể hiện cái hàng ngày, cái đời thường. Văn chương của ông, đặc biệt là thơ, đặc biệt nữa là thơ Nôm (Quốc âm thi tập), dung chứa một biên độ cảm xúc rất rộng, với mật độ cảm xúc đậm đặc và đa sắc thái, với rất nhiều cung bậc khác nhau nhưng đều tự nhiên và mới lạ. Xét riêng một chủ đề đặc biệt, có thể coi ông là nhà thơ tình theo đúng nghĩa đầu tiên trong văn học Việt Nam, với những bài thơ tình khi dí dỏm tài hoa, khi nồng nàn sâu lắng, lại cả có khi chua xót, bẽ bàng. Theo tôi, có lẽ ông là người đầu tiên trong văn học viết Việt Nam đã can đảm làm thơ... thất tình. Tiêu biểu là bài thơ sau đây:

Loàn đan ướm hỏi khách lầu hồng,
Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng.
Ngoài ấy dù còn áo lẻ,
Cả lòng mượn đắp lấy hơi cùng.

Thấp thoáng trong thơ Nôm Hồng Đức quốc âm thi tập đã có tiếng cười. Vậy nên mới có lối vịnh chị Hằng:

Cày cạy nàng nào khéo hữu tình,
Mặt làu làu, vóc thỏ thanh thanh.
Tròn tròn méo méo in đòi thuở.
Xuống xuống lên lên suốt mấy canh,
Tháng tháng liếc qua lầu đỏ đỏ.
Đêm đêm liền tới trướng xanh xanh.
Yêu yêu dấu dấu đàn ai gẩy,
Tính tính tình tang tính tính tinh.

(Họa vần mười bài vịnh trăng, bài X)(5).
Chẳng biết có dựa theo một điển cố nào không, chỉ biết dẫu dựa điển thì viết thế này vẫn cứ là bạo phổi: “Thượng đế tuy hay nghiêm cấm đoán – Có đêm lởm thởm đến phòng ta” (Hằng Nga nguyệt).

Hẳn không phải là soạn giả về sau chép lẫn, mà từ thời điểm ấy, vua tôi Lê Thánh Tông cũng hoàn toàn có thể đã vui vẻ cười với nhau khi cùng đọc lại những lời vịnh Cây đánh đu:

Bốn cột lang nha cắm để chồng,
Ả thì đánh cái, ả còn ngong.
Tế Hậu thổ, khom khom cật,
Vái Hoàng thiên, ngửa ngửa lòng.
Tám bức quần hồng bay phơi phới,
Hai hàng chân ngọc đứng song song.
Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy,
Nhổ cột đem về để lỗ không.
Rồi bài thơ này sẽ được mượn lại như một thứ khuôn mẫu mới.

Nhưng phải đợi đến đầu thế kỷ XVIII, trong văn học viết mới có những tiếng cười “xâu thành chuỗi”. Và có lẽ, do khởi đi cùng một tọa độ với truyện tiếu lâm, “cái tục” trong văn học viết tập trung thể hiện ở đúng cái “điểm quy chiếu đáo để”, lấy đề tài “trọng điểm” là đề tài giỡn cợt với các hình tượng mô phỏng “vật tục” và hành vi tính giao.


4. Nhìn sâu hơn vào những hiện tượng đặc trưng: tổ hợp truyện Trạng Quỳnh, thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương. Bàn về một đặc điểm mang tính quy luật của sự vận động trong văn học viết Việt Nam

Chuyện thế tục, chuyện đời thường là những thứ nhà nho luôn tỏ ra muốn quay lưng ngoảnh mặt. Trong gia phong, gia quy của những gia đình nền nếp, “ngôn” luôn luôn là một tiêu chí được kiểm soát nghiêm ngặt vì thuộc một trong tứ đức đòi hỏi ở phụ nữ. Giáo dục nho gia lấy sự gương mẫu, sự phỏng theo làm nền, nên để cho trẻ em, phụ nữ không “mượn gió bẻ măng”, người lớn, đàn ông phải làm gương trước. Chính vì thế, cho đến tận thời hiện đại, trong những gia đình được coi là có học, có giáo dục, những chuyện tục tĩu đã đành, cả những chuyện bị coi là thô lậu, những lời lẽ bị coi là bất nhã cũng không bao giờ được thốt ra.

Nhưng tục hóa giờ đây trở thành một nhu cầu, lành mạnh và mãnh liệt. Không thể tục hóa đồng bộ, phải hiện thực hóa nhu cầu này ở “khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền”. Đã vậy, thì phải đẩy ra mặt tiền của văn đàn một hay những “hình nhân thế mạng”. Xét về niên đại tuyệt đối, thì những “hình nhân” bán hư bán thực đầu tiên mà ta được nghe kể, được đọc thấy để “cười đã thì thôi” ấy là cặp bài trùng Trạng Quỳnh – Thị Điểm.

Nhân vật Thị Điểm chỉ xuất hiện trong dăm truyện, nhưng thật độc đáo, đặc sắc, đủ để dựng nên cả một chân dung. “Nàng” xinh đẹp, trắng trẻo (“da trắng vỗ bì bạch”), táo tợn đến ngổ ngáo (chuyện tiếp sứ thần, đối đáp khiến đến Quỳnh cũng phải “thua chạy” bẽ bàng), nhưng vốn lại là tiểu thư khuê các (con quan Bảng nhãn!) và vì thế hay chữ đến mức mẫn tiệp và tinh quái. Cũng như Hồ Xuân Hương, nàng hầu như không màng quan tâm đến chuyện lễ nghĩa, nhưng khác với Hồ Xuân Hương, nàng dường như hoàn toàn chủ động được với số phận mình. Có thể coi Thị Điểm là một nhân vật “tràn trề ánh sáng”, loại nhân vật nữ hiếm hoi trong văn chương truyền thống, cả trong văn học dân gian lẫn văn học viết.


Thơ vốn được quan niệm trước hết là để nói chí. Mà chí của nhà Nho, nếu không phải là “tu, tề trị, bình” thì cũng là “cày mây, cuốc nguyệt”, “giấu hương sắc lánh chơi ngoài cõi tục”. Không chỉ thơ trong khoa cử và trong văn học chức năng, mà thơ trong các thi tập của cá nhân, của cả các danh sĩ, đều thấm đẫm tinh thần ấy. Thơ cũng có thể để “ngôn tình”, có thể bày tỏ những cung bậc cảm xúc và nhận thức “hưng, quan, quần, oán”, nhưng dẫu gì đi nữa, “nùng” vẫn cứ cần “nhã, đạm”, “mạch kỵ thẳng, ý kỵ lộ”, phải tuân phục tôn chỉ “ôn nhu, đôn hậu”. Mỹ học ngôn từ của Nho gia, nhất là ở dạng khuôn mẫu, đòi hỏi cao khả năng của người viết nói được “ý ở ngoài lời” (ý tại ngôn ngoại).

Thơ đề vịnh của Hồ Xuân Hương chiếm tới 2/3 trong tổng số những bài thơ Nôm truyền tụng. Này thì vịnh người, này thì vịnh cảnh, này thì vịnh vật, này thì vịnh “sự kiện”. Vịnh người thì vịnh thế này:
Chân dung thứ nhất:

Bác mẹ sinh ra vốn chẳng hèn,
Tối tuy không mắt sáng hơn đèn.
Đầu đội nón da loe chóp đỏ,
Lưng đeo bị đạn rủ thao đen.

(Vịnh ông cử võ)
Chân dung thứ hai:
Trưa hè hây hẩy gió nồm đông,
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.
Lược trúc biếng cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm,
Một lạch đào nguyên suối chửa thông.
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt,
Đi thì cũng dở, ở không xong...

(Vịnh thiếu nữ ngủ ngày)
Lại chân dung thứ ba:
Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta,
Đầu thì trọc lốc, áo không tà.
Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm,
Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà.
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe,
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.
Tu lâu có lẽ lên sư cụ,
Ngất nghểu tòa sen nọ đó mà.

(Sư hổ mang)
Vịnh ai, thì Hồ Xuân Hương cũng tổ chức cái nhìn (vì thơ vịnh người, vịnh cảnh, vịnh vật chủ yếu khai thác và... khai quang những ấn tượng thị giác) hướng vào “vùng nhạy cảm và điều nhạy cảm”. Hồ Xuân Hương nghiêng tai về đâu, đưa mắt tới đâu, thì điều nghe thấy, nhìn thấy sớm nhất, rõ nhất là về “cái ấy, chuyện ấy”, thậm chí lắm lúc cơ hồ chỉ nghe thấy, nhìn thấy “cái ấy, chuyện ấy”. Đến tận chỗ tột cùng của tồn tại – cái chết – thức giác của người viết vẫn cứ thở than trước hết “về chuyện ấy”:
... Cán cân Tạo hóa rơi đâu mất,
Miệng túi càn khôn thắt lại rồi...

(Khóc ông phủ Vĩnh Tường)

... Thạch nhũ, trần bì sao để lại,
Quy nhân, liên nhục tẩm mang đi.
Dao cầu thiếp biết trao ai nhỉ?
Sinh ký, chàng ơi, tử tắc quy.

(Bỡn bà lang khóc chồng)
(Về những câu thơ, bài thơ này, do từ trước tới nay các nhà nghiên cứu, phẩm bình thơ Hồ Xuân Hương ít bình giải nghĩa ngầm ẩn, tưởng nên dừng lại nói qua đôi chút: người đàn ông chết đi, với người đàn bà, không chỉ cán cân, mà cả... quả cân Tạo hóa đã dành cho nàng, đương nhiên “rơi đâu mất”, khiến “miệng túi càn khôn” (ở nàng!) cũng phải “thắt lại rồi”. Với đoạn thơ thứ hai, ẩn đằng sau nghĩa tên các vị thuốc, thạch nhũ (nghĩa đen mặt chữ : vú đá), trần bì (vỏ quả quýt, quả tắt) ngụ ý những bộ phận sinh dục của người vợ, vì vợ còn sống, nên coi như người chồng “sao” (một công đoạn chế biến thuốc, đây dùng cả nghĩa từ để hỏi) “để lại”, quy nhân (nghĩa của từ Hán Việt đồng âm: dương vật đàn ông), liên nhục (nghĩa mặt chữ của từ Hán Việt đồng âm: liền thịt) thuộc về chàng, nên chàng “tẩm” (cũng là một công đoạn chế biến thuốc) rồi “mang đi” mất! Thêm nghĩa hàm ẩn, những động từ sao, tẩm được sử dụng thật tài tình! Trao “dao cầu”, nghĩa trực tiếp là trao lại phương tiện hành nghề, nhưng lại hàm ý tính toán chuyện tái giá để được... tiếp tục chuyện hành nghề. “Sinh ký, tử quy” (Sống gửi, thác về) vốn là một quan niệm triết học khẳng định chuyện tạm bợ, lâm thời của đời sống, hiện diện ở ít nhất trong dăm ba triết thuyết và tôn giáo lớn, nhưng ở đây còn mang nghĩa than tiếc người và vật cụ thể. Từ cuối, “quy”, như đã nói, nếu là từ đồng âm, sẽ khiến câu thơ cuối cùng không chỉ mang nghĩa triết lý đời sống).

Nhìn người, Hồ Xuân Hương nhìn bằng được ra những “con giống”, thì nhìn vật, nhìn cảnh, nàng cũng nhìn thấy cơ man những “cái giống”.

. Sự trong sạch của cái giếng thơi đặt cạnh sự thanh tân của đời thiếu nữ khiến “cái giếng” dù được đặc tả “cận cảnh, chân thực” mà không gợn lên cảm giác nhục thể. Dẫu sao, thì đó cũng là một ngụ ngôn táo tợn:

Cầu trắng phau phau đôi ván ghép,
Nước trong leo lẻo một dòng thông.
Cỏ gà lún phún leo quanh mép,
Cá diếc le te lách giữa dòng...

Không phải Hồ Xuân Hương đắc tội “vẽ bậy” lên các danh lam thắng cảnh, nàng còn làm hơn thế nhiều: coi chính các danh lam thắng cảnh là những “thứ ấy”.

Này thì hang Thánh Hóa:

Khen thay con Tạo khéo khôn phàm,
Một đố giương ra biết mấy ngoàm.
Lườn đá cỏ leo sờ rậm rạp,
Lách khe nước rỉ mó lam nham.
Một sư đầu trọc ngồi khua mõ,
Hai tiểu lưng tròn đứng giữ am.
Đến đây mới biết hang Thánh Hóa,
Chồn chân mỏi gối vẫn còn ham.

Còn hang Cắc Cớ, hơ hớ phía đối diện:

Trời đất sinh ra đá một chòm,
Nứt ra đôi mảnh hõm hòm hom.
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm.
Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm,
Con đường vô ngạn tối om om.
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc,
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm!

Hang đã vậy, động cũng “cùng cảnh ngộ”. Động Hương Tích là thứ này:

Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm,
Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom.
Người quen cõi Phật chen chân xọc,
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm.
Giọt nước hữu tình rơi thánh thót,
Con thuyền vô trạo cúi lom khom.
Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại,
Rõ khéo trời già đến dở dom!

Rõ là Hồ Xuân Hương đặt thế giới vào một lăng kính phồn thực tính không giới hạn. Không chỉ Dệt cửi, Đánh đu là thực hiện hành vi tính giao, Tát nước là hành vi bài tiết, Trống thủng là vì chuyện ấy, mà cả thằng Cuội, ả Hằng, cho đến cả con Tạo cũng bị cuốn mải mê vào vòng sinh hóa:

Khéo khen ai, đẽo đá chênh vênh, tra hom ngược
để đơm người đế bá
Gớm con Tạo, lừa cơ tem hẻm, rút nút xuôi cho lọt khách cổ kim.
(Qua cửa đó)

Bởi vật vô tri mà cũng động tình (Đá ông chồng bà chồng) nên “có trách chi” nếu người tu hành vẫn chưa ra khỏi vòng tục lụy:

Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc,
Trái gió cho nên phải lộn lèo.
(Kiếp tu hành)

Rất có thể Hồ Xuân Hương là tác giả của một bộ phận thơ Nôm truyền tụng, nhưng tỷ lệ là bao nhiêu, gồm những tác phẩm cụ thể nào, thì chưa thể tìm được câu trả lời.

Trong sự kiềm tỏa, kiểm soát ngặt nghèo của đạo lý, của dư luận và của cả chính thể nữa, chắc chắn nhiều tác giả nhà Nho đã phải chấp nhận hy sinh nhiều dự đồ sáng tạo của mình. Có một Hồ Xuân Hương châm ngòi và đi tiên phong, có một Hồ Xuân Hương đã tung ra những câu chữ “động trời”, nên cũng chính Hồ Xuân Hương ấy hứng chịu những hậu quả của dư luận

Và như thế, trên nhiều góc độ, Hồ Xuân Hương và Trạng Quỳnh là những hiện tượng đồng dạng. Nói một cách khái quát nhất, đó là loại hiện tượng giao thoa giữa văn học viết và văn học dân gian, giữa phương thức tồn tại hữu danh và phưong thức nặc danh, ẩn danh, khuyết danh.

( Nguồn VVH )
CoMay
CoMay

Tổng số bài gửi : 1316
Join date : 14/09/2009
Đến từ : Đất Mẹ

Về Đầu Trang Go down

Go'c _ Văn học Viêt Nam Empty Re: Go'c _ Văn học Viêt Nam

Bài gửi by CoMay Tue Oct 06, 2009 2:07 am

<table cellSpacing=0 cellPadding=0 width="100%" border=0><tr><td align=left>Giáp Hải: Bài thơ vịnh bèo </TD></TR></TABLE>
<table cellSpacing=0 cellPadding=0 width="100%" border=0><tr><td align=left>Giáp Hải tự là Tiềm Phu, hiệu Tiết Trai, tục gọi là Trạng Kế. Ông quê làng Dĩnh Kế, huyện Ph­ượng Nhãn, trấn Kinh Bắc (nay thuộc huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang). Năm 23 tuổi, Giáp Hải đỗ Trạng nguyên năm Mậu Tuất, niên hiệu Đại Chính thứ chín (1538) đời Mạc Thái Tông. Dư­ới triều Mạc, ông giữ chức Tuyên phủ đồng tri, thăng Lại bộ Thư­ợng thư­, kiêm Đông các đại học sĩ Nhập thị kinh diên, thăng hàm Thiếu bảo tư­ớc Sách quốc công, trông coi cả lục bộ.

Giáp Hải tính tình ôn nhã, phong cách đàng hoàng, từ tốn, nói năng khúc chiết nhỏ nhẹ sâu lắng. Ông là nhà thơ, nhà chính trị yêu nư­ớc thư­ơng dân sâu sắc. Thấy triều đình đổ nát, quan lại tham nhũng, dân tình lầm than, nhiều lần ông đã dâng kế sách chấn hưng đất nư­ớc.
Giáp Hải rất giỏi về văn học và ngoại giao, nhiều lần đi sứ phư­ơng Bắc, ông đư­ợc ngư­ời Minh kính phục và trang trọng gọi là Giáp Trạng Nguyên. Vua Mạc Mậu Hợp tặng ông lá cờ thêu hàng chữ khi về h­ưu: "Trạng đầu tể t­ướng Đẩu Nam tuấn, Quốc lão, đế s­ư, thiên hạ tôn" (Đỗ trạng nguyên, làm tể tướng, danh tựa Nam Đẩu. Là quốc lão, làm thầy vua, đư­ợc mọi ng­ười kính trọng).
Giai thoại "Bài thơ vịnh bèo":
Năm Đinh Dậu, nhà Minh mư­ợn cớ phò Lê diệt Mạc hòng thôn tính nư­ớc ta, sai đô đốc Cừu Loan và tư­ớng Mao Bá Ôn đem quân hùng hổ tiến vào cửa ải Pha Luỹ. Chúng gửi chiến thư­ cho triều đình Mạc, bảo phải đầu hàng thì mới tránh khỏi hoạ. Kèm theo th­ư là một bài thơ Bèo thách hoạ, d­ưới ký tên Mao Bá Ôn.
<BLOCKQUOTE dir=ltr style="MARGIN-RIGHT: 0px">
Tuỳ điền trục thuỷ mạc ­ương châm
Đáo xứ khan lai thực bất thâm
Không hữu căn miêu không hữu diệp
Cảm sinh chi tiết, cảm sinh tâm
Đồ chi tụ sứ ninh chi tán
Đản thức phù thời ná thứ­c trầm
Đại để trung thiên phong khí ác
Tảo quy hồ hải tiện nan tầm.

(Mọc theo ruộng n­ước hóp như­ kim
Trôi dạt lênh đênh chẳng đứng im
Nào có gốc sâu, nào có lá
Dám sinh cành nhánh, dám sinh tim
Tụ rồi đã chắc không tan tác
Nổi đó nào hay chẳng đắm chìm
Đến lúc trời cao bùng gió dữ
Quét về hồ bể hẳn khôn tìm)
</BLOCKQUOTE>
Vịnh bèo nh­ưng dụng ý của Mao Bá Ôn là coi khinh nư­ớc Nam sức yếu lực nhỏ, mong manh trôi dạt nh­ư cánh bèo mặt n­ước lênh đênh, chỉ một cơn gió là tan tác. Vua Mạc Đăng Dung giao cho Giáp Hải lên tận biên ải. Trong khi giao tiếp, Trạng Giáp Hải đã hoạ đáp:
<BLOCKQUOTE dir=ltr style="MARGIN-RIGHT: 0px">
Cẩm lâm mật mật bất dung châm
Đái diệp liên căn khởi kế thâm
Thư­ờng dữ bạch vân tranh thuỷ diện
Khẳng giao hồng nhật truỵ ba tâm
Thiên trùng lãng đả thành nan phá
Vạn trận phong xuy vĩnh bất trầm
Đa thiểu ngư­ long tàng giá lý
Thái công vô kế hạ câu tầm.

(Ken dầy vải gấm khó luồn kim
Rễ lá liền nhau, động vẫn im
Tranh với bóng mây che mặt n­ước
Chẳng cho tia nắng rọi xuyên tim
Sóng dồi muôn lớp thư­ờng không vỡ
Gió táp ngàn cơn cũng chẳng chìm
Nào cá nào rồng trong ấy ẩn
Cần câu Lã Vọng biết đâu tìm).
</BLOCKQUOTE>
Trong bài thơ hoạ, thấy lời lẽ mạnh mẽ, Mao Bá Ôn và Cừu Loan bàn bạc với nhau, nhận định rằng nư­ớc Nam có thực lực, ch­ưa thể nuốt trôi đư­ợc, lặng lẽ có trật tự cho lui binh về.
(St)

</TD></TR></TABLE>
CoMay
CoMay

Tổng số bài gửi : 1316
Join date : 14/09/2009
Đến từ : Đất Mẹ

Về Đầu Trang Go down

Go'c _ Văn học Viêt Nam Empty Re: Go'c _ Văn học Viêt Nam

Bài gửi by CoMay Sun Oct 11, 2009 4:46 am

* Đi Vào Cõi Thơ Tuệ Sỹ - Bùi Giáng




Tuệ Sỹ một vị sư. Ông viết văn quá nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u.... Một bữa ông đọc cho tôi nghe hai câu thơ chữ Hán của ông :

Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi

Ông bảo làm sao tiếp cho hai câu để nên một bài tứ tuyệt. Tôi đề nghị với ông nên nhờ ni cô Trí Hải tiếp giùm. Ông ngượng nghịu bảo tôi đừng nên rỡn đùa như thế. Vậy tôi xin lai rai thử viết :

Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ
Trí Hải đa tàm trúc loạn ty

Và xin ông chả nên lấy thế làm bực mình.

Nhưng ai có ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia, không hề bao giờ có vướng lụy, lại còn mang một nguồn thơ Việt phi phàm ? Một bài thơ "Không đề" của ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ :

Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn

Mới nghe bốn câu thôi, tôi đã cảm thấy lạnh buốt linh hồn, tê cóng cả cõi dạ.

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn

Tôi hoảng vía đề nghị : Đại Sư nên gác bỏ viết sách đi. Và làm thơ tiếp nhiều cho, Nếu không thì nền thi ca Việt mất đi một thiên tài quá lớn.

Ông đáp : - Để về hỏi lại cô Trí Hải xem có đúng như lời thế chăng.

Đôi mắt ướt tuổi vàng
Cung trời
Hội cũ

Xin xuống giòng thư thả như thế. Ắt nhìn thấy chất trang trọng dị thường của hoài niệm. Hoài niệm gì ? - Cung trời hội cũ.

Một hội đạp thanh ? Một hội nao nức ? - "Giờ nao nức của một thời trẻ dại ?".

Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ...

Mở lời ra, nguồn thơ trực nhập vào trung tâm cơn mộng chiêm niệm. Đầy đủ hết mọi yếu tố bát ngát : một cung trời xán lạn bao la, một hội cũ xao xuyến, một tuổi vàng long lanh.... Một đôi mắt ướt ngậm ngùi của hiện tại.

Nhưng mạch thơ đi ngầm. Tiết nhịp âm thầm nhiếp dẫn. Thi sĩ không cần tới một hình dung từ nào cả, vẫn nói được hết mọi người đều "phải nói" với mọi người "muốn nghe" với riêng mình "không thiết chi chuyện nói".

Người thi sĩ xuất chúng xuất thần thường có phong thái khác thường đó. Họ nói tất ít mà nói rất nhiều. Họ nói rất nhiều mà chung quy hồ như chẳng thấy gì hết. Họ nói cho họ, mà như nói hết cho mọi người. Nói cho mọi người mà cơ hồ chẳng bận tâm gì tới chuyện thiên hạ nghe hay chẳng nghe. Nỗi vui, nỗi buồn của họ, dường như chẳng phi giống lối vui buồn của chúng ta. Do đó chúng ta trách móc họ một cách lệch lạc hết cả (par manque de justice interne).

Trong một cuộc vui, ta hỏi họ vài điều. Họ lơ đễnh thờ ơ, ta tưởng họ kiêu bạc. Trong lúc mọi người đang gào khóc giữa đám tang, họ phiêu nhiên đi qua, trông có vẻ như mỉm cười, niêm hoa vi tiếu. Ta tưởng họ tàn nhẫn thô bạo.

Vua Gia Long ngày xưa đã từng lấy làm quái dị về thái độ Nguyễn Du : "Trẫm dùng người, không phân biệt kẻ Nam kẻ Bắc. Ai có tài thì trẫm trọng dụng (... ...). Cớ sao khanh lại u sầu ít nói suốt năm như thế ?".

Ông vua kia lấy làm lạ là phải lẽ lắm, hợp với lương tri thói thường thiên hạ lắm. Ông không thể hiểu vì sao vị di thần kia cứ miên man như nằm trong cõi mộng thần di, hồn dịch !

Vua đã ban cho chan hòa mưa móc, lộc trọng quyền cao đặc ân thâm hậu như thế, cớ sao Liệp Hộ chưa vừa lòng, vẫn chưa cứ thả mộng chạy lang thang về chân trời hướng khác.

Đáp : Ấy chính bởi đôi mắt nhìn đây mà thấy những đâu đâu.

Đôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời hội cũ

Đôi mắt ướt ? Đôi mắt của ai ? Vì sao ướt ? Vì lệ trào, hay là vì quá long lanh ?

Thi sĩ không nói rõ. Ấy là giữ một khoảng trống vắng lặng phóng nhiệm cho thơ.

Tha hồ chúng ta tự do nghĩ hai ba lối. Hoặc là đôi mắt thi nhân ướt trong hiện tại vì nhớ nhung một trời hội cũ. Hoặc là đôi mắt giai nhân nào long lanh dịu mật như nước suối chan hòa, soi bóng một khung trời hội cũ bất tuyệt nào, mà ngày nay tại hạ đã đánh mất rồi chăng ?

"Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang"

Áo nào màu xanh ? Màu xanh màu chàm của cô gái Mán gái Mường, gái núi nào xưa kia băng rừng và thi nhân đã ngẫu nhiên một lần nhìn đắm đuối ?

Tôi nói không sai sự thật mấy đâu. Vì Tuệ Sỹ vốn xưa kia ở Lào. Cha mẹ ông kiều cư trên đất Thượng Lào Trung Việt. Bà mẹ ông thỉnh thoảng cũng trở về Sài Gòn tới chùa viếng ông đem quà cho ông một đôi dép riêng biệt, một tấm khăn quàng riêng tây.

Đôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời hội cũ
Áo màu xanh
Không xanh mãi
Trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ.
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn

Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ ?

Mình là thân Bồ tát, quanh năm kinh kệ trai chay, thế sao bỗng nhiên một phút vội vã lại dám làm thân du thủ ? Dám gác bỏ kệ kinh ? Dám mở cuộc thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn ?

Phải có nhìn thấy khuôn mặt khắc khổ chân tu của Tuệ Sỹ, mới kinh hoàng vì lời nói thăm thẩm đơn sơ nọ. Lời nói như ngân lên từ đáy sâu linh hồn tiền kiếp, từ một quê hương trên thượng du bao la rừng núi gió sương canh chiều nguyệt rung rinh trong đêm lạnh.

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng

Mối tình rộng thả suốt biển non im lìm lạnh lẽo. Một hạt muối vẫn chưa tan. Một nếp u ẩn của lòng mình bơ vơ không gột rửa.

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan

Ta tưởng như nghe ra "cao cách điệu" bi hùng của một Liệp Hộ, một Nerval, một chỗ trầm thanh nhất trong cung bậc Nietzche.

Thy nhân đã mấy phen ngồi ngó trăng tàn ? Ngồi trên một đỉnh đá ? Bốn bề rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn màu trăng xanh tiếp giáp tới chân trời xa xuôi đại hải ?

Đỉnh đá và hạt muối là hai chốn kết tụ tinh thể của núi và biển. Đỉnh đá quy tụ về mọi hương màu trời mây rừng rú. Hạt muối chứa chất cái lượng hải hàm của trùng dương. Đó là cái bất tận của tâm tình dừng sững tại giữa tuết nguyệt phiêu du :

Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng

Một tiếng "buồn chăng" lơ lửng nửa như chất vấn, nửa như ngậm ngùi ta thán, dìu về cả một khúc tâm thanh đoạn trường :

Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Tiết nhịp lời thơ lại biến đổi :
Đếm tóc bạc
Tuổi đời
Chưa
Đủ
Bụi đường dài
Gót
Mỏi
Đi
Quanh

Tiết điệu rạc rời như gót mỏi đi quanh. Một tuổi đời chưa đủ ? Một tuổi xuân chưa vừa ? Một tuổi vàng sớm chấm dứt ? Một tuổi "đá" sớm từ giã mọi yêu thương ?

Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa
Ngược nước
Xuôi ngàn

Bài thơ dừng lại. Dư âm bất tuyệt kéo dài trong đềm lữ thư khép mình trong bốn bức tường với nhạt nhòa ủ rũ ngục tù.

Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ Đường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương./.


CoMay
CoMay

Tổng số bài gửi : 1316
Join date : 14/09/2009
Đến từ : Đất Mẹ

Về Đầu Trang Go down

Go'c _ Văn học Viêt Nam Empty Re: Go'c _ Văn học Viêt Nam

Bài gửi by CoMay Sun Oct 11, 2009 4:49 am

* Buổi chiều nắng hạ đọc thơ Tuệ Sỹ -Phạm Công Thiện

KỶ NIỆM 50 NĂM SINH NHẬT TUỆ SỸ
Buổi chiều nắng hạ đọc thơ Tuệ Sỹ


Phạm Công Thiện


Tôi đang ngồi nơi giảng đường của chùa Diệu Pháp ở California tại Huê Kỳ, chung quanh đầy tiếng chim kêu trên những cây chanh, những cây bằng lăng và những cây thông, cây tùng và những bông mộc lan trắng đang nơủ đầy hàng cây trên đồi dọc theo đường thoải xuống dưới kia thành phố Monterey Park.

Ngồi trên đồi cao nhìn ra xa có những rặng núi "như quáng nắng, như giấc mộng, như thành phố giữa sa mạc"...

Tôi muốn giành buổi chiều ngày hạ hôm nay để đọc lại thơ cua Tuệ Sỹ, một người bạn trẻ tài ba mà tôi đã quen biết thân thiết từ lúc Tuệ Sỹ mới khoảng 19 tuổi; rồi từ năm 1966, từ Paris tôi trở về Sài Gòn và ơủ lại cho đến năm 1970, trong bốn năm trời, dường như không có ngày nào chúng tôi không gặp mặt nhau và chia xẻ vui buồn với nhau trên mọi bình diện. Tôi lìa Việt Nam từ năm 1970 cho đến hôm nay, như thế có nghĩa rằng 24 năm nay tôi đã xa lìa Tuệ Sỹ và chưa được dịp gặp lại. Trong thời gian ấy, Tuệ Sỹ bị Cộng Sản nhốt tù từ năm 1979 cho đến năm 1981, và sau cùng từ năm 1984 cho đến năm nay, mười năm liên tục, Tuệ Sỹ vẫn bị Cộng Sản nhốt tù và bị xưủ tưủ hình, rồi giảm xuống chung thân hay hai chục năm cấm cố. Lần cuối cùng tôi gặp Tuệ Sỹ thì Tuệ Sỹ mới 26 tuổi. Chiều nay, tôi giựt mình chợt nhớ rằng năm nay Tuệ Sỹ đã 50 tuổi rồi. Thế thì không còn là chú tiểu Tuệ Sỹ mà là một đại thượng tọa Thích Tuệ Sỹ! Dù trong cảnh tù ngục đói khổ trăm điều, thiền sư thiên tài Tuệ Sỹ vẫn bất khuất và hùng khí vẫn ngùn ngụt cao ngất như đỉnh Trường Sơn mà nhà thơ Tuệ Sỹ vẫn trọn đời ngưỡng vọng yêu thương trên những con đường oanh liệt khai mở cho Sử Tính quê hương được vượt thoát ra ngoài chế độ Cộng Saủn, cái chế độ hoang phế tàn tạ mà Tuệ Sỹ gọi là "tha ma mộ địa". Chúng ta hãy lắng nghe bài thơ "Ngục Tối" của Tuệ Sỹ:

Lửa đã tắt từ buổi đầu sáng thế
Một kiếp người ray rứt bụi tro bay
Tôi ngồi mãi giữa tha ma mộ địa
Lạnh trăng tà lụa trắng trải rừng cây
Khuya rờn rợn gió vèo run bóng quỉ
Quì run run hôn mãi lóng xương gầy
Khóc năn nỉ sao hình hài chưa rã
Để hồn ta theo đốm lửa ma trơi.

Bốn câu thơ cuối đã nói hết tất ca thế giới điêu tàn cua Cộng Sản Việt Nam hiện nay:

Khuya rờn rợn gió vèo run bóng quỉ
Quì run run hôn mãi lóng xương gầy
Khóc năn nỉ sao hình hài chưa rã
Để hồn tan theo đốm lửa ma trơi

Hai câu thơ cuối cùng của bài "Ngục Tối" nói lên ý chí hực lưa đốt cháy tất cả gỗ mục của tâm thức hạ liệt:

Khi tâm tư vẫn chưa là gỗ mục
Lòng đất đen còn giọt máu xanh ngời

Bốn câu thơ cuối của bài "Giao Hưởng Bóng Tối" rực sáng lên đôi mắt trí huệ "đáo bỉ ngạn" của Tuệ Sỹ:

Ôi tiết nhịp thiên tài hay quỉ mị
Xô hồn ta lảo đảo giữa tường cao
Trưa dài lắm ta luân hồi vô thủy
Đổi hình hài con mắt vẫn đầy sao

Tuệ Sỹ còn có những bài thơ ngắn "Năm Tàn" mà âm vang phơi phới như ngọn gió rừng:

Lận đận năm chầy nữa
Sinh nhai ngọn gió rừng
Hàng cà phơi nắng lụa
Ngần ngại tiếng tha phương

(Năm Tàn)

Bài Trầm Mặc đưa chúng ta đi vào sự trầm mặc ung dung, không hẳn bi quan và không hẳn lạc quan, coi cuộc đời "như quáng nắng, như giấc mộng, như thành phố giữa sa mạc: tất cả sự hiện khởi, tồn tục và biến mất đều như vậy" (như câu kệ của Long Thọ mà Tuệ Sỹ đã trích dịch trong quyển Triết Học Về Tánh Không của mình):

Anh ôm chồng sách cũ
Trầm mặc những đêm dài
Xót xa đời khách lữ
Mệnh yểu thế mà hay

(Trầm Mặc)

Bài Thoáng Chốc ửng hiện lên âm hươủng thơ mộng, huyễn, bào, ảnh cuủa Kim Cương Kinh, phối hợp bình đẳng với lòng Đại Bi sâu thẳm:

Người mắt biếc ngây thơ ngày hội lớn
Khoé môi cười nắng quái cũng gầy hao
Như cò trắng giữa đồng xanh bất tận
Ta yêu người vì khoảnh khắc chiêm bao.

(Thoáng Chốc)

Tình yêu chỉ thực sự tình yêu, tình người chỉ thực sự là tình người, vì trực thức rằng tất cả đều là khoảnh khắc chiêm bao. Mỗi khi mình trực nhận rằng chính mình cũng là "khoảnh khắc chiêm bao" thì sự bừng dậy tỉnh thức toàn diện vụt chợt tới và từ đó mình đứng dậy lao thân vào hành động thuần túy của một bậc Bồ Tát để giải thoát con người ra khỏi tất cả lao lung của đời sống. Tuệ Sỹ đã saün sàng đi vào tù để chuyển y tâm thức khả dĩ phá tung tất cả tù ngục nhân sinh.

Chúng ta hãy đọc bài "Tôi vẫn đợi" cua Tuệ Sỹ:

Tôi vẫn đợi những đêm xanh khắc khoải
Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rừng
Trong bóng tối hận thù tha thiết mãi
Một vì sao bên khoé miệng rưng rưng

Tôi vẫn đợi những đêm đen lặng gió
Màu đen huyền ánh mắt tự ngàn xưa
Nhìn hun hút cho dài thêm lịch sư
Dài con sông tràn máu lệ quê cha

Tôi vẫn đợi suốt đời quên sóng vỗ
Quên những người xuôi ngược Thái bình dương
Người ở lại với bàn tay bạo chúa
Cọng lau gầy trĩu nặng ánh tà dương.

Rồi trước mắt ngục tù thân bé bong
Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu
Rồi khép lại hàng mi về Cõi Mộng
Như sương mai như bóng chớp mây chiều.
(Tôi vẫn đợi)

Một bài thơ lục bát cuủa Tuệ Sỹ có những câu khó quên:

... Sầu trên thế kỷ điêu linh
Giấc mơ hoang đảo thu hình tịch liêu
Hận thù sôi giữa nắng chiều
Sông tràn núi lở nước triều mênh mông
Khói mù lấp kín trời Đông
Trời ơi tóc trắng rũ lòng quê cha
Con đi xào xạc tiếng gà
Đêm đêm trông bóng Thiên hà buồn tênh.

Bài thơ cuủa Tuệ Sỹ mà tôi yêu thích nhất là bài "Một bước đường":

Một bước đường thôi nhưng núi cao;
Trời ơi, mây trắng đọng phương nào?
Đò ngang neo bến đầy sương sớm;
Cạn hết ân tình nước lạnh sao?

Một bước đường xa, xa biển khơi
Mấy trùng sương mỏng nhuộm tơ trời
Thuyền chưa ra bến bình minh đỏ
Nhưng mấy nghìn năm tống biệt rồi.

Cho hết đêm hè trong bóng ma
Tàn thu khói mộng trắng Ngân hà
Trời không ngưng gió chờ sương đọng
Nhưng mấy nghìn sau ố nhạt nhòa.

Cho hết mùa thu biệt lữ hành
Rừng Thu mưa máu dạt lều tranh
Ta so phấn nhụy trên màu úa
Trên phím dương cầm, hay máu xanh

Tôi không thể làm việc phê bình thơ; tôi chỉ muốn cho Thơ của Tuệ Sỹ tự hiện diện từ chính nơi tự tánh cuủa Thi Ca, không cần sự can thiệp trực tiếp hay gián tiếp cuủa một cái gì khác bên ngoài, như chính Tuệ Sỹ đã tự nói trong hai câu đầu một bài thơ chữ Hán do Tuệ Sỹ làm:

Tự tâm tự cảnh tự thành chương
Tự đối bi hoan diệc tự thưởng
(Tác Thi Sự)

và Thi sĩ Vân Nguyên đã dịch:

Cô độc cảnh tâm thơ tự xuất
Tự ngắm buồn vui tự thưởng thức

hay dịch sát nghĩa:

Từ lòng mình, tự cảnh vật, tự thành chương cú
Tự đối mặt với những buồn vui rồi tự mình thưởng thức

Thay vì "chương cú" như Vân Nguyên đã dịch sát nghĩa, tôi muốn dịch thoát trùng khơi là "chương khúc"... Nhưng Vân Nguyên đã tài tình chuyển là "THƠ TỰ XUẤT".

Mấy chục năm qua, Tuệ Sỹ đã làm rất nhiều thơ, nhưng Ni Cô Tuệ Hạnh chỉ thu nhặt được mấy chục bài và cho in lại với nhan đề thi tập là Ngục Trung Mị Ngữ, do Quaủng Hương Tùng Thư xuất bản. Đặc biệt trong thi tập này có 18 bài thơ mà Tuệ Sỹ làm thẳng bằng chữ Hán, có một bài làm xúc động tâm hồn tôi đến cực điểm, bài Cúng Dường:

Phụng thử ngục tù phạn
Cúng dường Tối Thắng Tôn
Thế gian trường huyết hận
Bỉnh bát lệ vô ngôn

Thượng Tọa Viên Lý dịch lại như sau:

Hai tay nâng chén cơm tù
Dâng lên từ phụ bậc thầy nhân thiên
Thế gian huyết hận triền miên
Bưng bình cơm độn lặng yên lệ trào.

Nhà thơ Vân Nguyên cũng có dịch như sau:

Dâng chén cơm tù lên
Cúng dường Tối Thắng Tôn
Thế gian tràn oán hận
Ôm chén lòng khóc thầm.

Tất cả hành động chính trị thường tình đều phiến diện; ý thức chính trị toàn diện chỉ được thể hiện nơi một con người vừa là thi sĩ vừa là thiền sư đạo sĩ vừa là nhà hành động nhập thế với tinh thần "vô công dụng hạnh" của bậc Bồ Tát, hành động tích cực mãnh liệt toàn triệt mà vẫn giữ cảm thức viễn ly và viễn mộng. Vì không tham vọng ích kỷ mù quáng cho nên mới nuôi dưỡng cảm thức viễn ly, vì không bị kẹt dính vào tham, sân và si của thế tục cho nên mới hàm dưỡng viễn mộng. Làm chính trị mà biết mơ mộng và sống thơ mộng, biết viễn ly và viễn mộng, khó thấy lắm trong lòng thực tại bi đát cuủa quê hương hiện nay.

Tuệ Sỹ là một trong số ít đạo sĩ thi nhân với pháp khí phi thường là Trí Huệ Bát Nhã cùng với lòng Đại Bi Thơ Mộng, Tuệ Sỹ là một trong số ít thể hiện được ý nghĩa trọn vẹn của Ý thức chính trị toàn diện, ý thức hành động Bi Trí Dũng dẫn đường soi sáng Thế Mệnh của Sử tính quê hương.

Nhân dịp kỷ niệm sinh nhật 50 năm của Tuệ Sỹ, qua đài phát thanh Nhà Nước Úc Châu SBS, và nhờ lời mời của nhà thơ Ngọc Hân, vị phụ trách chương trình Việt ngữ của đài SBS, tôi xin thân yêu gửi một quà tặng bí mật đến thiền sư thi sĩ Tuệ Sỹ: tất cả năng lực tâm linh và tinh thần của vũ trụ được súc tích cô đọng trong câu đại thần chú đạo sư Tây Tạng Liên Sinh Bồ Tát: OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM!

California, ngày 20 tháng 6, 1994.

Phạm Công Thiện
CoMay
CoMay

Tổng số bài gửi : 1316
Join date : 14/09/2009
Đến từ : Đất Mẹ

Về Đầu Trang Go down

Go'c _ Văn học Viêt Nam Empty Re: Go'c _ Văn học Viêt Nam

Bài gửi by dangphuong Sun Oct 11, 2009 4:55 am

Tuệ Sĩ thật khó hiểu...Có những bài thơ tình tôi không ngờ tác giả là ông.
Nhưng nói chung tôi rất ngưỡng mộ Tuệ Sĩ..một người chân phương và chân tình...và đa tài.
dp
Go'c _ Văn học Viêt Nam 938723
dangphuong
dangphuong

Tổng số bài gửi : 22827
Join date : 13/09/2009

Về Đầu Trang Go down

Go'c _ Văn học Viêt Nam Empty Re: Go'c _ Văn học Viêt Nam

Bài gửi by CoMay Sun Oct 11, 2009 5:09 am

dangphuong đã viết:Tuệ Sĩ thật khó hiểu...Có những bài thơ tình tôi không ngờ tác giả là ông.
Nhưng nói chung tôi rất ngưỡng mộ Tuệ Sĩ..một người chân phương và chân tình...và đa tài.
dp
Go'c _ Văn học Viêt Nam 938723
Thầy Thích Tuệ Sỹ là nguoi Cm mến mộ ...không chỉ vì tho* văn của Thầy ... triết lý sống của thầy ..mà còn đu*c' hạnh , lối sống của Thầy luôn là một tấm gu*o*ng cho Cm ... Nếu ai đã tu*ng` một lần tiếp xúc vo*í thầy thì khi đọc tho* Thầy quả là khó tin ....cuoi ... cm
CoMay
CoMay

Tổng số bài gửi : 1316
Join date : 14/09/2009
Đến từ : Đất Mẹ

Về Đầu Trang Go down

Go'c _ Văn học Viêt Nam Empty Re: Go'c _ Văn học Viêt Nam

Bài gửi by TK Thu Oct 22, 2009 2:17 am

Xin cảm ơn CoMay về những bài sưu tầm rất thú vị, đặc biệt là hai bài đầu, viết về Bích Khê và Tục hóa.

Người ta vốn dĩ trần truồng
Mặc vào chỉ để diễn tuồng mà thôi
Yêu cần gì phấn với vôi
Chỉ cần hai cái của tôi của nàng
TK
TK

Tổng số bài gửi : 3674
Join date : 19/10/2009
Đến từ : Hà Nội, Việt Nam

http://sites.google.com/site/tkintcol/

Về Đầu Trang Go down

Go'c _ Văn học Viêt Nam Empty Re: Go'c _ Văn học Viêt Nam

Bài gửi by CoMay Sat Oct 24, 2009 3:10 am

TK đã viết:Xin cảm ơn CoMay về những bài sưu tầm rất thú vị, đặc biệt là hai bài đầu, viết về Bích Khê và Tục hóa.

Người ta vốn dĩ trần truồng
Mặc vào chỉ để diễn tuồng mà thôi
Yêu cần gì phấn với vôi
Chỉ cần hai cái của tôi của nàng
Cm rất vui ConKhi da doc va thich .... chuc ConKhi luo^n vui nhé , Mến CM
CoMay
CoMay

Tổng số bài gửi : 1316
Join date : 14/09/2009
Đến từ : Đất Mẹ

Về Đầu Trang Go down

Go'c _ Văn học Viêt Nam Empty Re: Go'c _ Văn học Viêt Nam

Bài gửi by CoMay Fri Oct 30, 2009 3:40 am

Nhà thơ Bùi Giáng

Bùi Giáng - Nhà thơ cuối cùng của thế kỷ 20

Go'c _ Văn học Viêt Nam 214FF2EA7EE348EBBAF2785C0C2C8C0E
Nhà thơ Bùi Giáng (1926-1998).
Có lẽ những người yêu thơ Việt Nam vẫn còn nhớ ngày này cách đây 5 năm (7/10/1998), thi sĩ Bùi Giáng của chúng ta đã trút hơi thở cuối cùng ở Sài Gòn. Bùi Giáng, không chỉ là nhà thơ, mà đi xa hơn, ông chính là hiện thân của một "đạo thơ", một "thi sĩ sinh ra giữa cỏ cây và sẽ chết đi giữa cỏ cây ly kỳ gây cấn"...
Sự nghiệp của Bùi Giáng tỏa rộng qua nhiều lĩnh vực, từ thơ, nghiên cứu phê bình, bình giảng, làm báo và dịch thuật. Nhưng có thể khẳng định thơ đã "can thiệp", xuyên suốt và xuyên thấu qua hết mọi địa hạt của ông. Nói cách khác, cái lõi của vấn đề Bùi Giáng là "lõi thơ". Không những Bùi Giáng dịch hay như làm thơ (tiêu biểu là các cuốn Ngộ nhận, Hòa âm của điền dã, Hoàng tử bé)... mà ông viết nghiên cứu cũng dào dạt mê cuồng như làm thơ (Tư tưởng hiện đại)... Ông lấy "thi tưởng" để "quán" hết mọi lẽ trong hành động. Vì thế mới có những nhận định về Bùi Giáng theo kiểu như của nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, đó là "ngủ ra thơ, thở ra thơ, đi ra thơ, đứng ra thơ".
Điều tôi quan tâm ở thơ Bùi Giáng cũng là thái độ về lẽ biến hóa, vô thường đó. Ông là người kết hợp được những lý lẽ uyên áo, trầm mặc của tinh thần phương Đông với triết lý thực nghiệm, thực dụng của phương Tây nên càng về cuối đời, thơ Bùi Giáng càng có những cuộc đảo lộn dữ dội về ngôn ngữ, lật nhào cả những hệ thống quan điểm thơ mà gần như cả một đời ông xây dựng. Từ cái thuở tinh khôi và căn nguyên như trong Mưa nguồn:
"Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không?
Ta đi còn gởi đôi dòng
Lá rơi có dội ở trong sương mù."
cho đến khi xóa sổ, tung hê hết:
"Sài Gòn chợ Lớn rong chơi
Đi lên đi xuống đã đời du côn."
Triết lý trong cuộc chơi và kiếm tìm ngôn từ của Bùi tiên sinh cuối cùng chỉ còn lại mấy chữ "vui thôi mà!" cứ ngỡ rằng ai hiểu thế nào cũng được. Nhưng theo ý tôi, "vui thôi mà" đó chính là khát vọng và bi kịch của một thi sĩ đã "tuẫn nạn trên lộ trình của chữ". Dường như mỗi thi sĩ đích thực không thể lý giải hết khát vọng và sự có mặt của mình. Bùi Giáng viết:
"Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau".
Nhiều bài viết của các học giả cho rằng, ở văn học miền Nam một giai đoạn, nếu Phạm Công Thiện là đỉnh cao của trí tuệ thì Bùi Giáng chính là tinh hoa của trời đất.
Vì thế Bùi Giáng là kẻ hát rong giữa chợ đời hay kẻ vì yêu đời quá mà hóa điên, trở thành một gã cuồng khấu vô vọng? Không ai hiểu hết những con đường nào mà thi sĩ đã đi. Đường trần, đường thơ, đường định mệnh. Khi tôi biết Bùi Giáng và đến chơi với ông thì ông không còn đi rong nữa. Có lẽ ông đã thuộc lòng mỗi con đường, mỗi ngõ phố Sài Gòn. Ông dường như chỉ còn ngồi một chỗ trong căn nhà của một người cháu tên là Hoài trên đường Lưu Quang Định, quận Gò Vấp. Trên trán ông, lớp băng trắng vẫn còn thấm máu bởi những vết thương đời do những kẻ ít hiểu thi sĩ gây ra. Chỉ riêng hai con mắt vẫn sáng bừng như muốn nhìn thấu, muốn ôm trọn hết mọi cõi. Đến lúc ấy tôi mới hiểu hai câu thơ:
"Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con".
Tất nhiên, ý thơ này là của Bùi Giáng chứ không phải của Trịnh Công Sơn. Cũng cần phải nói thêm, Trịnh Công Sơn đã từng sử dụng rất nhiều ý tưởng của Bùi Giáng cho nhạc của mình nhưng ít khi ông chính danh về điều đó. Ví như ý câu thơ "Từ khi trăng là nguyệt" vậy. Nhưng Bùi Giáng, theo chỗ tôi biết, chưa một lần có phản ứng về điều này. Đến khi Bùi Giáng mất, Trịnh Công Sơn là người đã khóc trên báo Thanh Niên số tưởng niệm Bùi Giáng. Trịnh Công Sơn viết đại ý, ngày còn sống Bùi tiên sinh đã có thơ tặng ông. Thơ viết rằng:
"Công Sơn trịnh trọng phiêu bồng
Thưa rằng thơ nhạc có ngần ấy thôi!".
Tôi có nhiều lần được tiếp xúc và gặp gỡ với Bùi Giáng nhưng không có một buổi trò chuyện nào ông chịu hết mình với tôi. Bùi Giáng rất hay nổi điên khi có một người nào truy bức ông đến cùng. Cho dù đó là thi ca hay học thuật. Tôi cho rằng ông tránh các cuộc va chạm nảy lửa và tàn khốc ấy với hai lý do: Một, cuộc đời ông quá đủ đầy như một minh chứng; và hai, ông không muốn tái lặp lại bất cứ một đặt đề, một định đề nào cho Nghệ thuật. Đi vào nó thì giống như đi vào "Sa mạc phát tiến". Ước mơ của ông là tung hê hết chữ nghĩa để nhảy múa và hát ca. Mang tinh thần Lão tử, hòng diễn giữa chợ đời hiện đại. Vì thế ở một góc chợ Bà Chiểu, hay giữa cầu Trương Minh Giảng, người ta đã từng thấy thi sĩ múa may quay cuồng hay "nhập đồng" phóng ào từ trên xích lô xuống diễn kịch, múa gậy vây giữa đám đông hồ hởi và cuồng nhiệt. Những hình ảnh thơ như thế sẽ không bao giờ còn nữa. Ông chính là "người thơ" cuối cùng của một thế kỷ và đã ra đi giữa một thời đại đang ngày càng xa vắng những tâm hồn và những tâm tình thơ.
Nguyễn Hữu Hồng Minh
theo ThanhNien

CoMay
CoMay

Tổng số bài gửi : 1316
Join date : 14/09/2009
Đến từ : Đất Mẹ

Về Đầu Trang Go down

Go'c _ Văn học Viêt Nam Empty Re: Go'c _ Văn học Viêt Nam

Bài gửi by CoMay Mon Nov 02, 2009 2:18 am

Tô Hoài và một phong cách tiểu thuyết



Tô Hoài là cây đại thụ trong khu rừng văn học hiện đại Việt Nam, nói cho đúng hơn thì thế giới nghệ thuật của ông cũng là cả một cánh rừng với bao nhiêu loài thảo mộc lớn nhỏ, đa dạng về chủng loại. Nói đến Tô Hoài, người đọc nhớ ngay đến Tô Hoài của những sáng tác về Hà Nội, Tô Hoài với miền núi Tây Bắc, Việt Bắc, Tô Hoài của Dế Mèn phiêu lưu ký và những sáng tác cho thiếu nhi, Tô Hoài của hồi ký tự truyện...
Go'c _ Văn học Viêt Nam 1255422089.img
Nhà văn Tô Hoài


Ở phương diện nào, Tô Hoài cũng tạo lập được một giá trị riêng, một gương mặt riêng không thể nhòe lẫn. Trong cái thế giới nghệ thuật hết sức đa dạng ấy, về mặt thể loại, không thể không nói đến tiểu thuyết, bên cạnh truyện ngắn, hồi ký, bút ký, chân dung văn học.
Nếu tính về số lượng thì trong hơn 150 đầu sách của Tô Hoài, tiểu thuyết và truyện dài chỉ chiếm khoảng 15 cuốn, hành trình viết tiểu thuyết của Tô Hoài cũng trải dài trên suốt cả gần 70 năm viết của ông cho đến nay, kể từ tiểu thuyết đầu tay Quê người (1942) cho đến cuốn gần đây nhất: Ba người khác (2006). Với thể loại tiểu thuyết, nhà văn Tô Hoài từng được nhận những vinh quang và cả những cay đắng của người cầm bút: Quê người được Vũ Ngọc Phan đánh giá cao trong bộ sách Nhà văn hiện đại, tiểu thuyết Miền Tây đem đến cho Tô Hoài giải thưởng Hoa Sen của Hội nhà văn Á - Phi, nhưng Mười năm lại từng bị chỉ trích gay gắt của một số cây bút phê bình và giới lãnh đạo văn nghệ đương thời, còn một số tiểu thuyết được tác giả viết với nhiều tâm huyết, công phu và vốn sống thì lại gặp sự thờ ơ của dư luận.

Tô Hoài đến với tiểu thuyết khá sớm, ngay từ chặng đầu sáng tác: Quê người in năm 1942, cùng lúc với các tập truyện ngắn O chuột, Nhà nghèo, Giăng Thề .... cũng đều khai thác đề tài về cuộc sống và con người ở vùng quê ven thành của tác giả. Có thể nhận ra một đặc điểm này trong hành trình viết tiểu thuyết của Tô Hoài. Với cùng một đề tài, ông thường bắt đầu bằng những truyện ngắn, ký rồi mới tích tụ trong các tiểu thuyết.

Nếu các truyện ngắn là những mảnh nhỏ của cảnh đời, những ký họa chân dung con người, thì truyện dài và tiểu thuyết là cả một dòng sông cuộc đời trôi chảy của bao nhiêu sự việc, câu chuyện, đời người.

Nhìn đề tài, tiểu thuyết Tô Hoài có ba mảng lớn: về Hà Nội (chủ yếu vùng quê ven thành), về miền núi (Tây Bắc, Việt Bắc), về thời huyền sử xa xưa của đất nước (khai thác các truyền thuyết, cổ tích) ngoài ra còn có một vài cuốn thuộc những mảng đề tài khác (Một mình kể chuyện, Ba Người khác). Tô Hoài là nhà văn của Hà Nội, không chỉ ở tập ký đặc sắc Chuyện cũ Hà Nội và những tâp truyện ngắn Nhà nghèo, Giăng thề, Người ven thành..., mà còn phần quan trọng là ở tiểu thuyết, trong đó có bộ ba tác phẩm về vùng ven thành quê ngoại nhà văn Quê người (1942). Mười năm (1958) Quê nhà (1980) nếu xếp theo thời gian lịch sử được miêu tả, thì trình tự sẽ là Quê nhà - Quê người - Mười năm.

Quê người là cuốn tiểu thuyết đầu tay, nhưng đã bộc lộ khá rõ cái “tạng” riêng của tác giả, những đặc điểm của cây bút văn xuôi Tô Hoài. Không có những biến cố lớn lao, xung đột xã hội gay gắt, cả truyện chỉ là những cảnh sống diễn ra thường ngày ở một vùng quê ven thành có nghề thủ công. Có chuyện làm ăn, đám cưới, đám giỗ, cảnh hội hè, đình đám, có đủ cả buồn vui, yêu đương, sum họp, chia lìa.
Trên cái nền cảnh của cuộc sống đời thường ấy, là câu chuyện của mấy gia đình và hai đôi nam nữ: Hời - Ngây, Thoại - Bướm. Nhưng qua những bức tranh sinh hoạt phong tục ấy, vẫn hiện lên rõ sự sa sút, tiêu điều của một vùng quê vào thời kỳ kinh tế khủng hoảng và cùng với đó là những kiếp sống quẩn quanh, buồn bã, bị dồn đẩy tới đói nghèo, ly tán, tha hương.
Mười năm được Tô Hoài viết không chỉ bằng những hiểu biết mà cả những trải nghiệm, những háo hức,say mê bồng bột của một thời tuổi trẻ tác giả đến với phong trào cách mạng từ thời kỳ Mặt trận dân chủ đến Cách mạng tháng Tám. Trong những nhân vật Lê, Lạp, Ba, Trung - những thanh niên Làng Hạ được giác ngộ, tham gia phong trào cách mạng với những nhận thức quan niệm ban đầu còn khá đơn giản, có một phần bóng dáng của chính tác giả.
Nhớ lại hồi 1958 - 1959, khi cuốn tiểu thuyết này mới ra mắt bạn đọc, tác giả đã phải hứng chịu không ít những lời phê bình, chỉ trích khá gay gắt từ một số nhà phê bình, về những cái gọi là “tự nhiên chủ nghĩa”, tầm thường hóa những người cách mạng, sa vào quan niệm “con người trung bình”.v.v... Đến thời kỳ đổi mới, tiểu thuyết Mười năm đã dần được nhìn nhận lại, để đánh giá đúng giá trị và cả những hạn chế của tác phẩm. Mười năm là một tiểu thuyết đạt được nhiều thành công cả ở phương diện tái hiện bức tranh xã hội và cả ở một số hình tượng nhân vật rõ nét, có sức sống.
Quê nhà trở lại với một giai đoạn lịch sử đầy biến động trên đất nước ta, cũng như với Hà Nội: Khi quân viễn chinh Pháp tiến đánh và chiếm được thành Hà Nội, chúng cố mở rộng phạm vi chiếm đóng ra các vùng xung quanh, nhưng đã vấp phải sự kháng cự quyết liệt và bền bỉ của dân chúng, tập hợp trong các đội nghĩa binh hoạt động trên một vùng rộng lớn từ chân núi Ba Vì đến các làng ven thành Hà Nội. Trên cái nền cảnh bi tráng của một giai đoạn lịch sử, tác giả tập trung làm nổi bật hình ảnh của những nghĩa quân yêu nước, giàu khí phách và mưu trí.
Miền núi, nhất là Tây Bắc, đã trở thành một đề tài gắn bó lâu dài và nặng tình, nặng nghĩa với Tô Hoài sau nhiều tập truyện ngắn, bút ký rất thành công về miền núi. Năm 1967 Tô Hoài mới cho in tiểu thuyết Miền Tây. Cùng với vốn hiểu biết kỹ càng và nhiều mặt về các dân tộc ở Tây Bắc, tác giả đã khai thác nhiều tư liệu lịch sử, chính trị, quân sự, với ý đồ dựng lại sự vận động của lịch sử qua những biến đổi của cuộc sống, con người ở vùng Phìn Sa.
Cuốn tiểu thuyết trình bày những bức tranh đối lập của hai thời kỳ xưa và nay trong cuôc sống và số phận những con người miền núi ở một vùng xa xôi. Họ dàng ở Phìn Sa như là sự tiếp nối và mở rộng chủ đề của Miền Tây qua câu chuyện về lịch sử một dòng họ ở vùng đất ấy. Tiểu thuyết Nhớ Mai Châu đưa người đọc trở về với thời kỳ đầu cách mạng và kháng chiến hết sức căng thẳng, rối ren, phức tạp ở trung tâm xứ sở của người Mường.

Trong các truyện dài và tiểu thuyết của Tô Hoài còn phải kể đến bộ ba truyện viết về thời kỳ dựng nước từ xa xưa của dân tộc: Đảo hoang, Chuyện nỏ thần, Nhà Chử. Những tác phẩm này khai thác các truyền thuyết, truyện cổ tích rất tiêu biểu và quen thuộc, nhưng đã được tác giả bổ sung, phát triển bằng những hiểu biết hết sức phong phú về phong tục, văn hóa cổ xưa và bằng trí tưởng tượng sáng tạo dồi dào.

Tiểu thuyết Tô Hoài là hình ảnh của dòng đời tự nhiên, chảy trôi miên viễn. Cuộc sống hiện ra dưới cái nhìn của Tô Hoài thật dung dị tự nhiên như nó vốn thế: có mọi thứ của sinh hoạt đời thường, vặt vãnh, cái tốt đẹp và cái tầm thường, có đời sống xã hội, vận động của lịch sử và đời sống thế sự, sinh hoạt phong tục. Cảm quan hiện thực đời thường và ngòi bút nghiêng về phong tục là đặc điểm riêng biệt của Tô Hoài, không chỉ trong tiểu thuyết.

Go'c _ Văn học Viêt Nam Tohoai511
Tô Hoài vẫn được coi là nhà văn của những “chuyện thường, người thường, đời thường”. Nhưng cũng không vì thế mà lại không thấy ở tác phẩm của ông, nhất là tiểu thuyết, sự phản ánh những vấn đề xã hội và lịch sử, theo một cách riêng, xã hội và lịch sử được nhìn nhận được tái hiện trong những sự việc, chi tiết của đời sống sinh hoạt, thế sự, gắn kết tự nhiên với đời sống thường nhật, với công việc làm ăn, những buồn vui, đổi thay của số phận con người.
Sự xen lẫn đan dệt một cách tự nhiên giữa những hoạt động cách mạng với những chuyện làm ăn, mưu sinh yêu đương, mọi tập tục quen thuộc trong đời sống một làng quê, đó chính là cái nhìn riêng của Tô Hoài trong tiểu thuyết Mười năm, làm hiện lên bức tranh đời sống nhiều mặt đa dạng, tự nhiên và rất thực. Nhưng ở Miền Tây, việc thể hiện những biến chuyển của xã hội, lịch sử và những đổi thay trong số phận con người còn khá giản đơn, một chiều.

Nhãn quan phong tục đem lại cho tiểu thuyết (và cả những thể loại khác) của Tô Hoài sức hấp dẫn riêng biệt và độc đáo. Đọc Tô Hoài, người đọc được tiếp xúc với vô số phong tục, tập tục từ sinh hoạt trong gia đình, trong nhà, đến những sinh hoạt cộng đồng, lễ hội, ma chay, cưới hỏi..., ở rất nhiều vùng, từ làng quê ven thành, vùng đồng bằng Bắc Bộ đến vùng đồng bào các dân tộc thiểu số ở miền núi, cả ở những xứ sở xa xôi ngoài bên giới.
Bất cứ nhà dân tộc học, xã hội học nào cũng mong có được một vốn hiểu biết cực kỳ phong phú, sinh động như của nhà văn Tô Hoài. Trong những tác phẩm viết về thời dựng nước xa xưa, Tô Hoài tạo dựng được không khí và màu sắc huyền sử bằng những bức tranh chi tiết cụ thể sống động về phong tục, sinh hoạt, lao động của thời xưa cùng với những bức tranh thiên nhiên, trong thời kỳ mà bước chân và bàn tay khai phá của con người đang lấn dần từ vùng đồi núi xuống vùng châu thổ còn hoang sơ, rậm rạp, mênh mông, đến cả những hòn đảo ngoài biển (Đảo hoang, Nhà Chử).

Tiểu thuyết Tô Hoài thường có cốt truyện không phức tạp, cũng ít những sự kiện, biến cố quan trọng. Truyện cũng thường được trần thuật theo trình tự thời gian kể cả ở những tác phẩm dùng cách kể theo hồi tưởng của một nhân vật. Tô Hoài không hấp dẫn độc giả bằng các thủ pháp mới lạ trong cách viết, trong nghệ thuật kết cấu tác phẩm. Nhà văn cứ để dòng đời trên trang sách trôi chảy tự nhiên, nhiều khi khá lặng lẽ, với nhiều quãng dừng, mạch rẽ ở những chỗ miêu tả sinh hoạt, phong tục thiên nhiên.
Mạch truyện vì vậy thường chậm, ít có những chỗ được đẩy tới căng thẳng, những cao trào. Người kể chuyện trong truyện của Tô Hoài cứ nhẩn nha, bình thản mà kể, mà tả. Nhịp điệu chậm trong tiểu thuyết của Tô Hoài có thể làm cho một số người đọc dễ sốt ruột, khó kiên trì theo cùng với tác giả trên hành trình của dòng đời và nhân vật. Đây phải chăng cũng là một đặc điểm khiến cho tiểu thuyết của ông khó đến được với một số người đọc. Nhưng vượt qua những hạn chế ấy, bạn đọc đến với tiểu thuyết Tô Hoài là đến được với những pho bách khoa thư về đời sống, cả hiện tại và xa xưa, ở nhiều vùng từ gần gũi đến xa xôi.

Tô Hoài là một cây bút có sức sáng tạo cực kỳ dồi dào, phong phú hiếm có. Tôi đã nhiều lần được gặp ông, hỏi chuyện ông, có cả những lần may mắn được ở gần ông trong những chuyến đi dài vào một số tỉnh phía Nam. Nghe cách nói chuyện rất tự nhiên, giản dị của ông, nhưng khi nào cũng cho thấy một sự hiểu biết hết sức phong phú, kỹ càng về đời sống, xã hội, với một sự lịch lãm, bình thản, pha chút dí dỏm, tinh quái, tôi vẫn không hết ngạc nhiên và thán phục về một năng lực sáng tạo, về sự tinh tường và trí nhớ kỳ lạ của Tô Hoài, một cây đại thụ độc đáo hiếm có trong làng văn Việt Nam.

Theo XL
CoMay
CoMay

Tổng số bài gửi : 1316
Join date : 14/09/2009
Đến từ : Đất Mẹ

Về Đầu Trang Go down

Go'c _ Văn học Viêt Nam Empty Re: Go'c _ Văn học Viêt Nam

Bài gửi by Sponsored content


Sponsored content


Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang


 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết