Latest topics
» Hơn 3000 bài thơ tình Phạm Bá Chiểuby phambachieu Yesterday at 11:01 pm
» Một điểm dừng chân trên đường hoingo
by ChinhNguyen/H.N.T. Sun Mar 17, 2024 3:26 pm
» Những Giòng Cảm Tác Thơ THÁNG 1,2/24
by phambachieu Wed Mar 06, 2024 4:04 pm
» Cảm tác đầu Xuân
by ChinhNguyen/H.N.T. Sat Feb 24, 2024 2:59 pm
» TÁCH CÀ PHÊ DẦU NĂM (thơ dp)
by dangphuong Fri Feb 16, 2024 4:07 am
» VALENTINE (Thơ dp)
by dangphuong Fri Feb 16, 2024 3:59 am
» Mừng Xuân Giáp Thìn 2024
by phambachieu Fri Feb 09, 2024 1:52 am
» Hoài niệm nhà thơ Song An Châu
by dangphuong Mon Jan 29, 2024 12:29 am
» Chớm yêu 2
by ChinhNguyen/H.N.T. Sun Jan 21, 2024 3:06 pm
» Hi vọng cuối đời
by ChinhNguyen/H.N.T. Thu Jan 11, 2024 2:10 am
» Atlanta Mùa Lễ Giáng-sinh và Năm mới 2023-24
by ChinhNguyen/H.N.T. Thu Dec 28, 2023 11:22 pm
» Tiếng Đai Hàn
by Admin Wed Dec 27, 2023 4:15 am
» Trích Thơ&Tuỳ bút về Lễ Giáng-sinh
by ChinhNguyen/H.N.T. Wed Dec 20, 2023 2:22 pm
» Những Giòng Cảm Tác Thơ Tháng 11/2023
by ChinhNguyen/H.N.T. Tue Dec 12, 2023 3:34 pm
» Trang thơ mới
by dangphuong Thu Dec 07, 2023 12:04 am
» Những giòng cảm tác thơ tháng 10.2023 Đoạn 2
by ChinhNguyen/H.N.T. Wed Dec 06, 2023 11:52 pm
» Chùm thơ "Có lẽ..."
by dangphuong Wed Dec 06, 2023 7:39 pm
» Hoa Dừa trắng - Ảnh & Thơ
by dangphuong Wed Dec 06, 2023 7:36 pm
» Những giòng cảm tác thơ tháng 10.2023 Đoạn 1
by dangphuong Wed Dec 06, 2023 7:28 pm
» Tâm thức mùa Đông
by ChinhNguyen/H.N.T. Tue Nov 28, 2023 3:09 pm
» Buồn Tàn Thu
by ChinhNguyen/H.N.T. Thu Nov 23, 2023 10:24 am
» THUONG TIEC LQC
by ChinhNguyen/H.N.T. Thu Nov 16, 2023 10:00 am
» TIN BUỒN!
by dangphuong Thu Nov 16, 2023 5:56 am
» Cách xả stress trong cuộc sống
by thudayne Wed Nov 08, 2023 11:30 am
» Du học nước ngoài cần kỹ năng gì
by thudayne Wed Nov 08, 2023 11:02 am
» Thế giới thần tiên của ông-cháu III
by ChinhNguyen/H.N.T. Sun Nov 05, 2023 1:22 pm
» Nói đi...- Tình thơ!
by ChinhNguyen/H.N.T. Thu Nov 02, 2023 1:50 pm
» TIẾNG THƠ
by TC Nguyễn Wed Nov 01, 2023 2:30 pm
» Những giòng cảm tác thơ tháng 9.2023_Đoạn 2
by ChinhNguyen/H.N.T. Tue Oct 24, 2023 1:32 pm
» Lời muốn nói
by Tú_Yên Sat Oct 21, 2023 12:36 pm
» Những giòng cảm tác thơ tháng 9.2023 _Đoạn 1
by ChinhNguyen/H.N.T. Mon Oct 16, 2023 8:59 pm
» Tội tình chi ?
by ChinhNguyen/H.N.T. Fri Oct 13, 2023 2:17 pm
» THƯ gởi một bạn thơ.........
by ChinhNguyen/H.N.T. Tue Oct 10, 2023 1:22 pm
» Tập thơ "Một thoáng Phù vân"
by Tú_Yên Mon Oct 09, 2023 1:13 pm
» Tú_Yên vẽ
by Tú_Yên Mon Oct 09, 2023 1:02 pm
» Tranh và Thơ
by Tú_Yên Mon Oct 09, 2023 12:58 pm
» Thơ Haiku (Tú_Yên)
by Tú_Yên Mon Oct 09, 2023 12:54 pm
» Ỡm ờ … (thơ ĐL dp)
by dangphuong Fri Oct 06, 2023 10:16 pm
» CHỜ (thơ ĐL dp)
by dangphuong Tue Oct 03, 2023 5:58 am
» Tặng khúc
by lyquangchinh Mon Oct 02, 2023 7:14 am
» Để tốt nghiệp đại học loại giỏi, cần phải tự học home school nhiều
by thudayne Sun Oct 01, 2023 7:22 pm
» SỐNG MỘT MÌNH (thơ ĐL dp)
by dangphuong Sun Sep 24, 2023 3:53 am
» Thu cảm
by dangphuong Sun Sep 24, 2023 3:35 am
» THỜI GIAN (thơ ĐL dp)
by dangphuong Sun Sep 17, 2023 11:06 pm
» HÌNH NHƯ (thơ dp)
by dangphuong Sun Sep 17, 2023 5:35 am
» VẪN CÒN TIN YÊU (thơ dp)
by ChinhNguyen/H.N.T. Sat Sep 16, 2023 8:57 am
» SINH NHẬT HỘI NGỘ (thơ ĐL dp)
by ChinhNguyen/H.N.T. Mon Sep 11, 2023 12:29 pm
» Chúc Mừng Sinh Nhật Hội Ngộ 2023
by ChinhNguyen/H.N.T. Mon Sep 11, 2023 12:24 pm
» XIN MÃI DẤU YÊU (thơ ĐL dp)
by dangphuong Fri Sep 08, 2023 6:38 pm
» Những giòng cảm tác THƠ tháng 8/2023 (tt)= Đoạn 3
by ChinhNguyen/H.N.T. Fri Sep 08, 2023 1:52 pm
» Những giòng cảm tác THƠ tháng 8/2023 (tt) Đoạn 2
by ChinhNguyen/H.N.T. Fri Sep 08, 2023 1:46 pm
» Những giòng cảm tác THƠ tháng 8/2023 Đoạn 1
by ChinhNguyen/H.N.T. Fri Sep 01, 2023 12:58 pm
» WinWin nhà Tôi
by Tú_Yên Fri Sep 01, 2023 11:25 am
» Truyện thơ "Lời cho Mây"
by Tú_Yên Fri Sep 01, 2023 11:22 am
» Truyện Thơ_Cháu của Bà
by Tú_Yên Fri Sep 01, 2023 11:17 am
» NIỀM NHỚ KHÔN NGUÔI (thơ dp)
by dangphuong Thu Aug 31, 2023 4:41 am
» Phép lạ (thơ của Anhdao Vuong)
by dangphuong Thu Aug 31, 2023 4:25 am
» ĐI QUA BÓNG TỐI (thơ ĐL dp)
by dangphuong Wed Aug 30, 2023 5:49 am
» MỘT THUỞ GHÉ HỒ TRÀM (thơ ĐL dp)
by dangphuong Wed Aug 30, 2023 3:19 am
» MÙI QUÊ HƯƠNG (thơ dp)
by dangphuong Tue Aug 29, 2023 11:16 pm
» Mặc mưa nắng … (thơ ĐL dp)
by dangphuong Mon Aug 28, 2023 6:53 pm
» NỖI ĐỚN ĐAU CHÔN KÍN (thơ dp)
by dangphuong Mon Aug 28, 2023 6:49 pm
» Hoàng-hạc-lâu âm vọng 1
by ChinhNguyen/H.N.T. Mon Aug 28, 2023 3:07 am
» XÓT THƯƠNG (thơ ĐL dp)
by dangphuong Sat Aug 26, 2023 4:26 am
» HỒNG NHAN TRI KỶ (thơ dp)
by dangphuong Sat Aug 26, 2023 2:53 am
» Những giòng cảm tác THƠ tháng 7/2023 [Đoạn 3]
by ChinhNguyen/H.N.T. Wed Aug 23, 2023 1:44 pm
» TÌNH YÊU ĐÔI LỨA VÀ TÌNH BẠN (bài viết của dp)
by ChinhNguyen/H.N.T. Tue Aug 22, 2023 12:10 pm
» Những giòng cảm tác THƠ tháng 7/2023 [Đoạn 2]
by ChinhNguyen/H.N.T. Sun Aug 20, 2023 12:50 pm
» Những giòng cảm tác THƠ tháng 7/2023 [Đoạn 1]
by dangphuong Fri Aug 18, 2023 2:53 am
» Thơ HaiKu (CN)
by dangphuong Wed Aug 16, 2023 2:23 am
Bản sắc văn hoá Việt
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Bản sắc văn hoá Việt
<table cellSpacing=0 cellPadding=0 width="100%" border=0><tr><td align=left>Nhà thờ Gỗ Kon Tum – báu vật giữa núi rừng Tây Nguyên </TD></TR></TABLE> |
<table cellSpacing=0 cellPadding=0 width="100%" border=0><tr><td align=left>Nằm bên dòng Đắk Blah trong xanh, thơ mộng, thấp thoáng dưới chân dãy núi Ngọc Lĩnh hùng vĩ, thị xã Kon Tum nho nhỏ hiện lên hồn nhiên và mạnh mẽ như chính cái chất vốn có của con người Tây Nguyên. Thị xã Kon Tum đã cuốn hút mọi người ngay từ cái nhìn từ xa, nơi đó du khách có thể thấy tháp chuông nhà thờ Chánh tòa Kon Tum với màu nâu ấm áp cao sừng sững vươn lên nền trời xanh. Được xem là di tích cổ và đẹp nhất, Nhà thờ Chánh tòa Kon Tum với tên gọi gần gũi là Nhà thờ Gỗ luôn là niềm tự hào của người dân Tây Nguyên. <table cellSpacing=0 cellPadding=0 width=1 align=center border=0><tr><td> Nhà thờ nhìn từ phía chính diện Nhà thờ gỗ Kon Tum do một linh mục người Pháp khởi công xây dựng năm 1913, tọa lạc trên một diện tích rộng giữa trung tâm thị xã, có kiến trúc kết hợp giữa phong cách Roman với kiểu nhà sàn của người Ba Na. Công trình này hoàn toàn bằng gỗ, được những bàn tay tài hoa của nghệ nhân Bình Định, Quảng Nam xây dựng. Cung thánh được trang trí theo hoa văn của các dân tộc ở Tây Nguyên, gần gũi với đời sống hàng ngày mà vẫn gợi cảm giác thiêng liêng, trang trọng. Khu hoa viên của nhà thờ có nhà rông mái thật cao, các bức tượng tạc từ rễ cây làm không gian mang đậm màu sắc đại ngàn. Ngoài thánh đường chính, nhiều công trình khác cũng được xây dựng rất tinh tế và mỹ thuật như nhà thờ, nhà tiếp khách, nhà trưng bày các sản phẩm dân tộc và tôn giáo. Trong khuôn viên nhà thờ còn có cô nhi viện, cơ sở may, dệt thổ cẩm, cơ sở mộc để giáo dục, đào tạo và tạo việc làm cho nhiều mảnh đời không may. Khuôn viên nhà thờ luôn mở rộng cửa cho khách tham quan. Vào uống rượu trái cây do các nữ tu chưng cất và nhìn ngắm những em gái người dân tộc ngồi dệt thổ cẩm cũng là kỷ niệm khó quên về thị xã êm đềm này. Không xa nhà thờ Chánh Tòa là chủng viện Kon Tum do vị giám mục đầu tiên của giáo phận Kon Tum xây dựng từ năm 1935 đến năm 1938, cũng có kiến trúc tương tự như nhà thờ nhưng quy mô lớn hơn. Bước qua cổng, du khách cảm thấy thư thái với hai hàng cây sứ lâu năm tỏa bóng mát, thoảng hương thơm dìu dịu trên đường vào trong chủng viện. Trên tầng hai của chủng viện có một phòng truyền thống trưng bày chi tiết về lịch sử truyền giáo tại Kon Tum từ giữa thế kỷ XIX, gồm nhiều hiện vật, các bút tích... của những vị linh mục trên đường truyền đạo, các hình ảnh, tài liệu liên quan đến lịch sử hình thành và phát triển của giáo phận Kon Tum. Cũng có thể coi đây là một bảo tàng nhỏ về vật dụng sinh hoạt, nông cụ, vật thể văn hóa các dân tộc thiểu số đang sinh sống trên địa bàn tỉnh này. Ngôi nhà thờ gỗ Kon Tum chinh phục lòng bao người không chỉ vì bố cục của nó được sắp xếp hài hòa, kiến trúc của nó lộng lẫy. Cái Đẹp nơi đây được tôn thêm nhiều bởi nhà thờ luôn biết nâng niu, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Đến với nhà thờ, du khách được chiêm ngưỡng bề dày của nền văn hóa Tây Nguyên được tái hiện, từ khu hoa viên với nhà rông cao vút, hay các bức tượng làm bằng rễ cây, từ các hoa văn nghệ thuật độc đáo vừa trang nghiêm, huyền bí vừa hết sức gần gũi pha lẫn đường nét phóng khoáng trên cung thánh nhà thờ, trên hệ thống gỗ và rui mè...Tất cả đều mang đậm bản sắc văn hóa Tây Nguyên. Và điều kỳ diệu hơn là nhà thờ này được dựng lên hoàn toàn bằng phương pháp thủ công, bàn tay tài hoa của các nghệ nhân từ Bình Định, Quảng Nam và cả từ miền Bắc vào đã làm nên điều diệu kỳ đó. <table cellSpacing=0 cellPadding=0 width=1 align=center border=0><tr><td> Nhà thờ nhìn nghiêng Không bê tông cốt thép, không một chút vôi vữa, chất liệu để xây cất nhà thờ hoàn toàn bằng gỗ tốt nhất thời bấy giờ, trong đó gỗ cà chít chiếm số lượng nhiều nhất. Ngoài ra, các bức tường của nhà thờ đều được xây bằng đất trộn rơm, một kiểu làm nhà truyền thống của người miền Trung. Thế nhưng, dù hơn một thế kỷ trôi qua ngôi thánh đường vẫn vững vàng, bền đẹp với thời gian. Du khách có thể đến thăm nhà thờ gỗ Kon Tum vào bất cứ thời điểm nào nơi miền đất cao nguyên có độ cao so với mặt nước biển gần 600 mét này. Nếu vào mùa hoa đậu nở, trên đường tới nhà thờ bạn sẽ gặp sắc hồng, sắc trắng của những con đường hoa làm lộng lẫy thêm nhan sắc Kon Tum. Nếu bạn đến vào dịp lễ Giáng Sinh, bạn sẽ gặp tại đây cả nghìn giáo dân đủ tộc người tìm đến nhà thờ, họ ở lại ngay bãi đất trống bên phải có khi cả tuần để tham dự lễ. Đó là những ngày nhà thờ náo nhiệt, đầy sức sống với cảnh mua bán tấp nập. Tất nhiên, trong phiên chợ này có rất nhiều sản phẩm thủ công từ các buôn làng đem theo bày bán. Còn nếu đến nhà thờ vào một ngày bình thường nào đó, sẽ gặp sự thầm lặng của một giáo đường. Hàng ghế hai bên hông nhà thờ vào lúc làm lễ là chỗ để giáo dân cầu nguyện, lúc này thành chỗ cho các em học sinh dùng để ôn bài học tập. Và bạn cũng có thể ra dãy nhà phía sau nhà thờ, đó là dãy nhà mới xây dựng sau năm 1975 nhưng vẫn không phá vỡ kiến trúc tổng thể. Tại đây có một nơi sản xuất đồ thủ công mĩ nghệ đậm chất dân tộc Bana, và tại đây có một cô nhi viện nuôi dưỡng trẻ mồ côi. Giữa miền Tây Nguyên nắng gió, giữa tiếng vang vọng của núi rừng, bỗng đâu đó vang lên tiếng chuông nhà thờ, tiếng chuông gợi trong lòng khách lãng du bao nỗi nhớ, nỗi nhớ về mảnh đất Kon Tum, về một thế giới trầm lắng, thánh thiện của ngôi Nhà thờ Gỗ yên bình. Minh Đức theo QH </TD></TR></TABLE> |
Được sửa bởi CoMay ngày Sat Nov 07, 2009 5:54 am; sửa lần 1.
CoMay- Tổng số bài gửi : 1316
Join date : 14/09/2009
Đến từ : Đất Mẹ
Re: Bản sắc văn hoá Việt
<table cellSpacing=0 cellPadding=0 width="100%" border=0><tr><td align=left>Chùa Đậu: chuyện cũ – tích xưa </TD></TR></TABLE> |
<table cellSpacing=0 cellPadding=0 width="100%" border=0><tr><td align=left>Chùa Đậu thuộc địa phận thôn Gia Phúc, xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Theo tích xưa, vì chùa thờ nữ thần Pháp Vũ (bà Đậu) nên được nhân dân gọi là chùa Đậu. Theo nhiều văn bia lịch sử ghi lại, chùa Đậu được xây dựng từ triều nhà Lý. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chùa Đậu vẫn giữ được những nét cổ xưa vốn có. Về kiến trúc, chùa Đậu được xây dựng theo kiểu "nội công ngoại quốc". Tam quan chùa là một gác chuông đẹp, hai tầng tám mái với các đầu đao cong vút. Nhiều bộ phận gỗ được chạm khắc hình rồng, phượng và hoa lá. Tầng trên treo quả chuông đúc năm 1801 thời Tây Sơn. Đi qua tam quan là một sân gạch rộng, hai bên có hai tòa giải vũ làm nơi nghỉ ngơi cho khách hành hương. Tiền đường phía trước, nối liền với hai dãy hành lang hai bên và nhà tổ ở phía sau làm thành một khung vuông bao bọc lấy tòa thiêu hương và điện thờ Bà Đậu. <table cellSpacing=0 cellPadding=0 width=1 align=center border=0><tr><td> Tháp chuông chùa Đậu với các đầu đao cong vút. Ngoài những giá trị kiến trúc, chùa Đậu còn bảo lưu được nhiều di vật quý như: 2 con chồn đá ở thềm Tam Quan có niên hiệu thời Trần, đôi rồng đá ở thềm bậc Tiền Đường, đến nay đã có hơn 500 năm tuổi; các phù điêu trạm hình tiên nữ đầu người, mình chim, những chàng trai cưỡi rồng đánh hổ, các loại gạch đất nung có hoa văn thời Mạc, thời Lê, hai bộ sách đồng… Đặc biệt, chùa còn lưu giữ hai pho tượng ướp xác, còn gọi là xá lỵ, hay tượng táng hai vị tổ thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường quý hiếm, làm nên một chùa Đậu bí ẩn và độc đáo. Tục truyền xưa kia, nhân dân quanh vùng thường gọi thiền sư Vũ Khắc Minh là nhà sư rau, bởi quanh năm thức ăn của ông chỉ duy nhất là rau. Trước khi mất, ông ngồi vào trong am để tụng kinh, mang theo 1 chum nước và một chum dầu để thắp. Ông dặn các đệ tử “sau 3 tháng 10 ngày nếu không nghe thấy tiếng gõ mõ tụng kinh nữa mới được mở cửa am ra. Nếu thi thể của ta còn nguyên vẹn thì lấy sơn ta bả lên người, còn nếu đã bị hôi thối thì dùng đất lấp am”. Vị thiền sư đã chuẩn bị cho sự ra đi của mình. <table cellSpacing=1 cellPadding=1 width=420 align=center summary="" border=1><tr><td><table cellSpacing=0 cellPadding=0 width=1 align=center border=0><tr><td> </TD></TR></TABLE></TD> <td><table cellSpacing=0 cellPadding=0 width=1 align=center border=0><tr><td> </TD></TR></TABLE></TD></TR></TABLE> Hai vị Thiền sư đắc đạo Cho đến nay, khoảng thời gian 3 tháng 10 ngày đó vẫn mãi là bí mật không lời giải thích. Giới Phật tử thì cho rằng, hai vị thiền sư đã tu luyện được “lửa tam muội”, một loại lửa có thể chiến thắng mọi tác động bên ngoài và trường tồn với thời gian mà vẫn được lưu truyền trong Phật giáo. Theo như lời của vị sư trụ trì chùa Đậu, đại đức Thích Thanh Nhung, thì hai vị thiền sư sau khi đắc đạo để lại Toàn Thân Xá Lợi. Xá lợi có nghĩa là đốt không cháy, ngâm trong nước không tan, không bị không khí thời gian bào mòn. Quy luật của vũ trụ là vật chất không tự nhiên mất đi, mà chỉ biến đổi từ dạng này sang dạng khác, trong Phật giáo còn gọi là Thành, Trụ, Hoại, Không. Xá lợi không bị chi phối bởi không gian, thời gian và quy luật của vũ trụ. Chính vì vậy, hai pho tượng được coi là quốc bảo thiêng liêng và nhận được sự cung kính như Đức phật sống. Trải qua hàng trăm năm hai pho tượng đã có những dấu hiệu xuống cấp nghiêm trọng. Nhận thấy sự cấp thiết của vấn đề đến tháng 5.2003 Sở Văn hoá thông tin Hà Tây, Hội Phật giáo, UBND tỉnh Hà Tây… thực thi Dự án Tu bổ và bảo quản hai pho tượng. Chùa Đậu vốn đã huyền bí và mang trong mình những giá trị tâm linh lớn lao từ hai vị thiền sư đắc đạo, nay càng trở nên hấp dẫn hơn, bởi kỳ tích khôi phục tượng táng của các nhà khoa học Việt Nam. Thùy Dung </TD></TR></TABLE> |
CoMay- Tổng số bài gửi : 1316
Join date : 14/09/2009
Đến từ : Đất Mẹ
Re: Bản sắc văn hoá Việt
<table cellSpacing=0 cellPadding=0 width="100%" border=0><tr><td align=left>Vườn thượng uyển ở cố đô </TD></TR></TABLE> |
<table cellSpacing=0 cellPadding=0 width="100%" border=0><tr><td align=left>Trong 143 năm (1802-1945) trị vì, triều Nguyễn đã xây dựng ở kinh đô Huế rất nhiều vườn thượng uyển. Cho đến nay, một số vườn chỉ còn lại dấu tích và một vườn vẫn còn nguyên vẹn tuy hoang phế, đó là Tịnh Tâm. Vẻ đẹp của những khu vườn ấy vẫn lưu lại mãi mãi trong những bài thơ của các vị vua triều Nguyễn. <table cellSpacing=0 cellPadding=0 width=1 align=center border=0><tr><td> Cố đô Huế </TD></TR></TABLE>Thượng uyển (ngự uyển) là những khu vườn kiến trúc tuyệt đẹp là nơi vua, quan triều đình dạo chơi, buông câu, đọc sách, ngâm thơ... sau những giờ làm việc. Du khách đến Huế thường băn khoăn không biết vườn thượng uyển ở đâu! Sử sách cho hay, dưới triều Nguyễn kéo dài 143 năm (1802-1945) đã xây dựng rất nhiều vườn thượng uyển, và cho đến nay một số vườn còn dấu tích và một trong những vườn ấy vẫn còn nguyên vẹn trên thực địa! Theo sách "Thần kinh nhị thập cảnh - Tập thơ của Vua Thiệu Trị", trong 20 bài thơ nhà vua vịnh 20 thắng cảnh nổi tiếng của Kinh thành Huế xưa, có tới bảy bài vịnh các vườn thượng uyển. Các bài thơ này được thể hiện trên tranh gương đóng khung thếp vàng treo trong cung điện. Hiện nay một trong những bức tranh gương đó vẫn còn. Đọc thơ cách đây hơn 150 năm ta có thể hình dung về các vườn thượng uyển đẹp nhất kinh đô đã được miêu tả. Vườn Thiệu Phương, một vườn thượng uyển xây dựng năm 1828 (Minh Mạng) ở trong Tử Cấm Thành. Bài thơ thất ngôn bát cú vịnh vườn này được khắc tranh gương thơ còn may mắn sót lại, hiện vẫn còn lưu giữ trong Bảo tàng Cổ vật Huế". Vườn rộng mênh mông thắm sắc hoa Bao năm hương ngát gió đưa xa. Lan vươn dáng khỏe sen tròn trịa Cúc nép thân thon mai mặn mà... Theo sử sách, khu vườn này có tường gạch bao quanh. Chính giữa là những hồi lang có mái lợp ngói hoàng lưu ly rất độc đáo dẫn ra bốn phía, nối tiếp mãi với nhau theo hình chữ vạn. Trong vườn có hai ngôi đình và hai hiên lãm ở bốn góc, có hai lạch nước tên là Ngự Câu, có hòn giả sơn Trích Thúy Sơn. Năm 1841, dưới thời vua Thiệu Trị, vườn Thiệu Phương được đầu tư sửa sang. Phía tây có thêm điện Hoàng Phúc thêm nhiều đình tạ để vua câu cá và hóng mát. Đến nay, dấu tích còn lại duy nhất của khu vườn thượng uyển này là chiếc cổng ở trong Đại Nội, trên cổng vẫn còn dòng chữ lớn: "Ngự chế - Thiệu Phương viên môn, Minh Mạng cửu niên cát nhật tạo". <table cellSpacing=0 cellPadding=0 width=1 align=center border=0><tr><td> Một ngôi nhà vườn ở Huế </TD></TR></TABLE>Vườn Thư Quang được mô tả trong bài thơ Thư Uyển Xuân Quang (Nắng xuân vườn Thư Quang) là một trong những vườn ngự uyển, tráng lệ, nổi tiếng được xây dựng vào năm 1836 (Minh Mạng) phía bắc Hoàng Thành (thuộc phường Thuận Thành bây giờ). Vườn có chu vi nửa cây số, có sáu cửa ra vào, có nhiều điện lầu gác, đình tạ, nhiều cầu có mái, vườn hoa, hồ nước, chim cây... Thơ vua Thiệu Trị viết thật đẹp, thật lung linh về vườn này: Rực mầu phong cảnh như châu ngọc Lộng ảnh ao hồ tựa gấm sa Vườn Ngự Viên là cảnh đẹp thứ năm được vua Thiệu Trị ca ngợi qua bài thơ Ngự Viên đắc nguyệt (Ngự Viên ngắm trăng): Thâm nghiêm cung cấm giữa canh khuya Trong vắt ao thu trăng nước hòa Liền dải lâu đài in lóng lánh Sáng ngời hoa thụ rực nguy nga. Vườn Ngự Viên được xây dựng năm 1821, ở góc đông bắc Tử Cấm Thành. Dấu vết hiện vẫn còn là Hồ Ngọc Dịch, Tiểu Ngự Hà và một số hòn giả sơn ở khu nhà lầu Ngự Tiền Văn phòng (thời Bảo Đại) Trong Hoàng Thành thời Minh Mạng ở đông bắc có hồ Nội Kim Thủy. Giữa hồ có đảo Doanh Châu được xây dựng thành một vườn thượng uyển với kiến trúc cầu kỳ gồm hệ thống gác, đình, lầu, thủy tạ, hiên lãm... với các hòn giả sơn, tre, sen, mai, trúc, cúc. Đây là nơi các vua Nguyễn thường ra dạo chơi, hóng mát, đề thơ vịnh cảnh. Trên đảo Doanh Châu này, đẹp nhất là gác Hải - Tịnh Niên Phong (sóng lặng mùa no). Vua Thiệu Trị xếp gác này vào Thần Kinh nhị thập cảnh và có bài thơ Cao Các Sinh Lương vịnh gác này. Bây giờ hồ Nội Kim Thủy vẫn còn các đảo mọc đầy cây cối cỏ dại. Cũng vào thời Minh Mạng, Thiệu Trị, một hoa viên nữa được ca ngợi hết lời là Cung Trường Ninh với hệ thống lầu điện nguy nga, hồ nước, vườn cây hoa thâm u, có núi Bảo Sơn, Kình Ngự, có lạch Đào Nguyên như bồng lai tiên cảnh. Cung Trường Ninh cũng được vua Thiệu Trị đề thơ: ... Đình bên hồ lắng cả trời cao? Sông nước cuộn mây hợp sắc mầu Tơ liễu theo cần vương sợi gió Hương sen luồn cửa cuốn trường bào (Bài Buông câu ở hồ Trường Ninh). Vào năm 1840, vua Nguyễn còn cho làm một vườn thượng uyển nổi tiếng ở gần khu ruộng vua cày khi làm lễ Tịch Điền (phường Tây Lộc bây giờ) gọi là vườn Thượng Mậu. Kiến trúc cũng tương tự như các vườn ngự uyển khác, nhưng hoành tráng và hoa hệ hơn. Đây chính là nơi Hoàng tử Miên Tông (vua Thiệu Trị sau này) sống và nghiên cứu kinh sử. Vua làm tới hàng chục bài thơ ca ngợi các cảnh đẹp trong vườn này, trong đó có bài Thường Mậu Quan Canh (xem cày ở vườn Thường Mậu) nổi tiếng. <table cellSpacing=0 cellPadding=0 width=1 align=center border=0><tr><td> Hồ Tịnh Tâm </TD></TR></TABLE>Một vườn thượng uyển nổi tiếng đẹp từ thời Minh Mạng đến nay tuy đã hoang phế vẫn còn nguyên diện tích và hình hài kiến trúc là Hồ Tịnh Tâm. Hồ thuộc phường Thuận Thành, từ cửa Thượng Tứ đi thẳng vào. Hồ do ngăn sông Kim Long mà thành từ thời Gia Long. Trên hồ có hai hòn đảo có nhà kho chứa thuốc súng của triều đình. Năm 1839, vua Minh Mạng cho sửa sang, xây dựng thành vườn ngự uyển lớn và đẹp nhất Hoàng gia. 8.000 binh lính tham gia xây dựng công trình. Xây xong, vua đặt tên là Tịnh Tâm Hồ. Chu vi hồ 1.450 m. Trên hồ có ba đảo. Hai đảo lớn phía nam gọi là Bồng Lai, bắc là Phương Trượng. Đảo nhỏ phía tây đảo Phương Trượng gọi là Doanh Châu. Giữa đảo Bồng Lai có Điện Bồng Doanh nguy nga, có cầu Bồng Doanh nối vào bờ, có nhà Thủy Tạ Thanh Tâm, có lầu Trùng Luyện. Trên đảo Phương Trượng có gác Nam Huân hai tầng, có cầu Bích Tảo, có lầu Tịnh Tâm, rồi hiên, đình, hòn giả sơn, cây cổ thụ, hành lang mái lợp... Chung quanh hai đảo lớn và quanh hồ trồng nhiều tre trúc, liễu và các loại hoa. Khắp mặt hồ thả sen hồng, sen trắng... Vua Thiệu Trị xếp Tịnh Tâm Hồ là thắng cảnh thứ ba trong 20 thắng cảnh đất Thần Kinh, với bài thơ đề Tịnh Tâm Hạ Hứng (cảm hứng ở Hồ Tịnh Tâm vào mùa hè). Bức tranh thơ này có vẽ lại cảnh hồ xưa. Hồ Tịnh Tâm nếu đầu tư phục chế lại nguyên trạng chắc chắn sẽ trở thành điểm du lịch kỳ thú. Bởi ngoài việc tham quan để hiểu thêm cảnh vườn thượng uyển xưa du khách còn được những phút thưởng ngoạn quý giá. Tiếc thay, cho đến nay, Tịnh Tâm Hồ vẫn còn hoang phế, chỉ những bông sen là vẫn nở đúng mùa. Nguyễn Thị Minh Tâm </TD></TR></TABLE> |
CoMay- Tổng số bài gửi : 1316
Join date : 14/09/2009
Đến từ : Đất Mẹ
Re: Bản sắc văn hoá Việt
<table cellSpacing=0 cellPadding=0 width="100%" border=0><tr><td align=left>Nghệ thuật múa rối nước </TD></TR></TABLE> |
<table cellSpacing=0 cellPadding=0 width="100%" border=0><tr><td align=left>Múa rối nước là nghệ thuật của người nông dân vừa gần gũi lại vừa linh thiêng, cũng chính là biểu tượng cho mơ ước của cộng đồng người Việt. <table cellSpacing=0 cellPadding=0 width=1 align=center border=0><tr><td> </TD></TR></TABLE> Múa rối nước là một sáng tạo độc đáo của cư dân vùng châu thổ sông Hồng, được manh nha từ công cuộc chế ngự, cải tạo nước. Yếu tố độc đáo của rối nước là sử dụng mặt nước làm sân khấu để con rối diễn trò, đóng kịch. Buồng trò rối nước (nhà rối hay thủy đình), được dựng lên giữa ao, hồ với kiến trúc cân đối tượng trưng cho mái đình của vùng nông thôn Việt Nam. Tất cả buồng trò, sân khấu cùng trang bị cờ, quạt, voi, lọng, cổng hàng mã... đúng là một đình làng thu nhỏ lại với những mái uốn cong lung linh phản chiếu trên mặt nước. Các tiết mục rối nước thể hiện rõ nét những cảnh sinh hoạt bình thường về đời sống, tập tục của người nông dân Việt Nam. Quân rối nước chính là sản phẩm của nghệ thuật điêu khắc gỗ dân gian, vừa giàu tính hiện thực, vừa mộc mạc, đằm thắm, trữ tình. Kỹ thuật điều khiển trong múa rối nước rất được coi trọng, nó tạo nên hành động của quân rối nước trên sân khấu, đó chính là mấu chốt của nghệ thuật múa rối. Quân rối đẹp mới chỉ có giá trị về mặt điêu khắc. Sự thành công của quân rối nước chủ yếu trông vào sự cử động của thân hình, hành động làm trò đóng kịch của nó. Các nghệ nhân dân gian đã dựa vào kinh nghiệm và khả năng sáng tạo để làm ra nhiều kiểu máy rối nước phong phú và đa dạng. Máy điều khiển được giấu trong lòng nước, lợi dụng sức nước, tạo sự điều khiển từ xa, cống hiến cho người xem nhiều bất ngờ kỳ diệu. Nghệ nhân rối nước đứng trong buồng trò thao tác bằng cây sào hoặc giật con rối bằng hệ thống dây. Ngâm bùn lội nước để làm nghệ thuật không phải là một công việc bình thường thích thú với mọi người. Nếu không phải là người sống ân tình với nước tới mức "Sống ngâm da, chết ngâm sương" như cư dân trồng lúa nước, thì khó có được sự truyền cảm nồng nhiệt vào hành động của nhân vật rối nước <table cellSpacing=0 cellPadding=0 width=1 align=center border=0><tr><td> </TD></TR></TABLE> Khởi thủy là biểu diễn trên sân khấu ngoài trời giữa ao hồ, nên rối nước cần âm thanh mạnh để giữ tiết tấu và khuấy động không khí buổi diễn. Các phường hội dân gian chuyên dùng bộ nhạc gõ dân tộc như trống cái, não bạt, mõ, pháo, tù và ốc. Âm nhạc rối nước mang tính đại náo của hội hè, có tác dụng kích động mạnh cả người diễn lẫn người xem. Vốn là một nghệ thuật lấy động tác làm ngôn ngữ diễn đạt, rối nước gắn bó với âm nhạc như nghệ thuật múa. Âm nhạc điều khiển tốc độ, giữ nhịp, dẫn dắt động tác, gây không khí với tiết tấu truyền thống vẫn giữ vai trò chủ đạo trong sân khấu. Múa rối nước là nghệ thuật của người nông dân vừa gần gũi lại vừa linh thiêng, cũng chính là biểu tượng cho mơ ước của cộng đồng người Việt. Hồng Minh, Tuyết Loan </TD></TR></TABLE> |
CoMay- Tổng số bài gửi : 1316
Join date : 14/09/2009
Đến từ : Đất Mẹ
Re: Bản sắc văn hoá Việt
<table cellSpacing=0 cellPadding=0 width="100%" border=0><tr><td align=left>Tiếng trống trong đời sống người Huế </TD></TR></TABLE> |
<table cellSpacing=0 cellPadding=0 width="100%" border=0><tr><td align=left>Từng hồi trống đầy đặn, khoẻ khoắn vang lên trong không gian tĩnh lặng xứ Huế, hoà cùng tiếng trống, tiếng cồng, tiếng khánh, len lỏi qua từng mạch thời gian, rồi để lại trong tiềm thức người dân về ý nghĩa sự tồn sinh. Không biết tự lúc nào, tiếng trống đã ăn sâu vào nếp nghĩ của người dân xứ Huế nó không thể thiếu trong những bài kinh, kệ nhà Phật, trong những lễ hội, đình đám và trong đời sống tâm linh của họ. <table cellSpacing=0 cellPadding=0 width=1 align=center border=0><tr><td> </TD></TR></TABLE>Trống dùng trong tín ngưỡng có 2 loại là Trống đại và Trống tiểu (hay trống kinh). Trống đại là trống lớn đánh trong những lúc như trước khi đánh chuông minh vào đầu đêm hoặc cuối đêm, theo thể thức bài "Tam luân cửu chuyển", Trống Tiểu là thứ trống nhỏ, dùng đánh trong những khi tụng kinh bái sám. Thường thì trống được làm từ gỗ mít lâu đời và bịt da trâu để dễ dàng đạt được âm lượng trầm hùng nhất. Tiếng trống tượng trưng cho chánh pháp. Chúng sanh nghe trống chánh pháp thì nghiệp chướng tất tiêu trừ và sẽ được thoát ly luân hồi sanh tử. Tiếng trống không ai, không bi mà có sức mở, sức giải thoát tự nhiên. Mỗi khi tiếng trống được gióng lên, đánh lên, thì như đưa con người ta trở về với chánh pháp, với sự an lạc. Những lúc Đức Phật thuyết pháp, ngài nói rằng ngôn ngữ của mình cũng giống như trống chánh pháp, có thể thu phục lóng người, đưa hồn họ đạt đến an tịnh, thanh tao. Tiếng trống chốn thiền môn không những nhắc nhở người ta đừng lạc vào những bản ngã, mà còn làm rơi rụng đi tính tự kiêu, tự thị, giải phóng sự khổ đau, cô đơn trong cuộc sống của mỗi con người, tự hỏi một ngày đã qua đã làm được gì đối với chánh pháp và để đón chào một bình minh, một sức sống mới trong tâm hồn người để chuẩn bị cho một ngày hành động đầy ý nghĩa tốt đẹp. Không giống tiếng chuông xoáy sâu vào hồn người nghe, tiếng trống thúc giục lòng người, tạo ra sự hưng phấn, niềm vui. Từng tiếng cắc - tang - tùng - rụp - vê liên hồi, tạo thành những chuỗi âm thanh trầm bổng, mạch lạc nhưng không réo rắt, đinh tai, đưa hồn người lên theo từng cung bậc, để rồi hòa nhập vào thế giới tự nhiên. Trống còn có ý nghĩa "đỡ hơi" cho người tán tụng và giúp cho buổi lễ được tăng phần trang nghiêm, long trọng. Với "sứ mệnh" như vậy mà trong những lễ hội, đình đám ở xứ Huế ngày nay, bên cạnh những nhạc cụ như kèn sona, chiêng, cồng, sáo, bộ gõ... thì trống là nhạc cụ không thể thiếu được. Trái với tiếng kèn sona, chiêng, cồng, sáo, bộ gõ... thì trống là nhạc cụ không thể thiếu được. Trái với tiếng kèn nỉ non, tiếng sáo réo rắt, bi ai, thì tiếng trống tỏ rõ sự sinh tồn của vạn vật và luật sinh tử của con người. Tiếng trống trầm hùng, mạch lạc, hoà cùng tiếng chiêng, cồng, như nhắc nhở người ta hãy nhớ đến những người đã khuất nhưng không bi ai, lệ luỵ. Tiếng trống như nói lên rằng, vạn vật phải tuân theo quy luật luân hồi; ở thế giới này hay thế giới khác, vạn vật đều tồn tại và cõi âm dương cũng chỉ là hai thái cực không tách rời. Trong những lễ hội như Lễ hội cầu ngư ở Thuận An, lễ hội Thánh Mậu y A Na ở điện Hòn Chén, lễ Phật Đản hàng năm, hay lễ Vu Lan... tiếng trống vọng lên chúa trời về sự hiện diện của con người và sự dâng lễ của họ... Ở chốn làng quê, trong không gian rộng lớn, những cuộc hoà cồng chiêng, trống như đánh thức thiên nhiên, thôi thúc sự sinh sôi, nảy nở, cho mùa màng tốt tươi, thóc lúa đầy kho, con cháu đầy nhà. Người đánh trống thường là người có uy quyền già làng, trưởng thôn, hay trưởng họ... Điều này phần nào cho thấy tầm quan trọng của tiếng trống đối với người dân. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, tiếng trống đã hằn sâu vào đời sống tâm linh và tinh thần của người dân xứ Huế. Dù đi ngược hay về xuôi, ở bất cứ ở nơi đâu, ai ai cũng sẽ mãi nhớ đến tiếng trống trầm hùng, vang vang, trang nghiêm, nổi lên trước giờ đánh chuông U minh và những tiếng trống rộn ràng, mạnh mẽ, long trọng, trong những ngày lễ hội, đình đám ở nơi đây. Tú Thành (Văn hóa) </TD></TR></TABLE> |
CoMay- Tổng số bài gửi : 1316
Join date : 14/09/2009
Đến từ : Đất Mẹ
Re: Bản sắc văn hoá Việt
Trầu têm cánh phượng thắm tình lứa đôi
Cau non tiện chũm lòng đào
Trầu têm cánh phượng thiếp trao cho chàng
Trong tiềm thức và phong tục của người Việt, miếng trầu có vai trò rất quan trọng đặc biệt là trong việc tác thành hạnh phúc lứa đôi. Thế nên, không biết tự bao giờ trong dân gian đã lưu truyền rất nhiều câu ca liên quan đến miếng trầu như : “Có phải duyên nhau thì thắm lại”, “Ba đồng một mớ trầu cay”, “Vì trầu thắm quá làm lòng em say”, “Miếng trầu nên dâu nhà người” hay “Miếng trầu là đầu câu chuyện”… Miếng trầu làm mọi người gần gũi với nhau hơn, cởi mở với nhau hơn. Với người lạ, miếng trầu để làm quen, kết bạn, với người quen, miếng trầu là tri ân, tri kỷ.
Trong miếng trầu nhỏ bé nhưng hội tụ rất nhiều yếu tố, đủ hương, đủ vị. Một miếng trầu bao gồm một lá trầu quệt ít vôi tôi trắng ngần, têm gọn gàng, tỉa hình cánh phượng, cuốn ăn cùng lát vỏ đỏ au và miếng cau bổ sáu. Nếu đứng riêng rẽ, đó chỉ là cây, là lá, là đá . Nhưng khi hợp lại, chúng hoà quyện, cộng sinh vào nhau, được ấp ủ trong môi miệng con người thì tất cả bỗng biến đổi, trở nên đằm thắm, rực rỡ hơn. Khi ăn, ban đầu miếng trầu mang vị chát, hơi đắng nhưng dễ chịu và có cung bậc được tạo ra bởi sự tươi ngọt từ phần mềm của cau, vị bùi của vỏ và vị nồng nàn của vôi. Tất cả những hương vị và sự hòa quyện đó khiến người ăn có cảm giác lâng âng gần như say rượu, say nước chè xanh hay say thuốc lào.
Miếng trầu không chỉ đơn giản là thú ăn chơi bởi khi ăn trầu có mùi thơm, trừ được vi khuẩn trong miệng, giúp các bà, các chị nhuộm răng đen. Miếng trầu còn tượng trưng cho tình yêu chung thủy lứa đôi, nó cũng là “bùa mê”, là chiếc cầu đưa đẩy thiếp và chàng nên duyên chồng vợ. Khi nam nữ bên nhau, mời nhau miếng trầu cay, môi người con gái đỏ và bóng lên, đôi má ửng hồng, nét đẹp thiếu nữ càng khiến các chàng trai đắm say.
Khi duyên đã bén, cũng chính miếng trầu đi đầu, tác hợp cho lứa đôi đồng thời là sợi dây kết chặt mối lương duyên cho
đôi trai gái thành vợ thành chồng. Trong mâm lễ sang thưa chuyện cùng nhà gái, nhà trai dù giàu nghèo thế nào cũng không thể thiếu lá trầu, quả cau. Trong tất cả các nghi thức, lễ nghi như dạm ngõ, ăn hỏi và cuối cùng là lễ cưới sự hiện diện của miếng trầu là điều không thể thiếu. Khi đám cưới kết thúc, cô dâu, chú rể bưng khay trầu mời họ hàng, khách khứa như thông báo chính thức rằng họ đã nên vợ, thành chồng.
Ngày nay, mặc dù miếng trầu không còn xuất hiện nhiều trong giao tiếp hàng ngày, người ta không còn mời nhau ăn trầu nữa mà thay vào đó là những đồ ăn thức uống của thời hiện đại, nhưng hình ảnh người bà ngồi bên hiên nhà bỏm bẻm nhai trầu, vừa quạt vừa kể chuyện cổ tích cho đàn cháu nhỏ nghe sẽ vẫn khắc sâu trong tâm tưởng mỗi chúng ta.
Tục lệ ăn trầu mãi mang đậm nét bản sắc dân tộc và tính nhân văn trong cuộc sống của dân tộc Việt Nam. Và đặc biệt, điều đáng tự hào hơn đó là trải qua bao đổi thay, nhiều giá trị văn hóa đã mai một do sự tác động của cuộc sống đô thị song trong tập tục cưới hỏi của người Việt, miếng trầu vẫn giữ nguyên giá trị và được con cháu nâng niu, gìn giữ.
Cau non tiện chũm lòng đào
Trầu têm cánh phượng thiếp trao cho chàng
Trong tiềm thức và phong tục của người Việt, miếng trầu có vai trò rất quan trọng đặc biệt là trong việc tác thành hạnh phúc lứa đôi. Thế nên, không biết tự bao giờ trong dân gian đã lưu truyền rất nhiều câu ca liên quan đến miếng trầu như : “Có phải duyên nhau thì thắm lại”, “Ba đồng một mớ trầu cay”, “Vì trầu thắm quá làm lòng em say”, “Miếng trầu nên dâu nhà người” hay “Miếng trầu là đầu câu chuyện”… Miếng trầu làm mọi người gần gũi với nhau hơn, cởi mở với nhau hơn. Với người lạ, miếng trầu để làm quen, kết bạn, với người quen, miếng trầu là tri ân, tri kỷ.
Trầu têm cánh phượng thắm tình lứa đôi |
|
|
đôi trai gái thành vợ thành chồng. Trong mâm lễ sang thưa chuyện cùng nhà gái, nhà trai dù giàu nghèo thế nào cũng không thể thiếu lá trầu, quả cau. Trong tất cả các nghi thức, lễ nghi như dạm ngõ, ăn hỏi và cuối cùng là lễ cưới sự hiện diện của miếng trầu là điều không thể thiếu. Khi đám cưới kết thúc, cô dâu, chú rể bưng khay trầu mời họ hàng, khách khứa như thông báo chính thức rằng họ đã nên vợ, thành chồng.
|
Tục lệ ăn trầu mãi mang đậm nét bản sắc dân tộc và tính nhân văn trong cuộc sống của dân tộc Việt Nam. Và đặc biệt, điều đáng tự hào hơn đó là trải qua bao đổi thay, nhiều giá trị văn hóa đã mai một do sự tác động của cuộc sống đô thị song trong tập tục cưới hỏi của người Việt, miếng trầu vẫn giữ nguyên giá trị và được con cháu nâng niu, gìn giữ.
Nguồn: Monngonhanoi
CoMay- Tổng số bài gửi : 1316
Join date : 14/09/2009
Đến từ : Đất Mẹ
Re: Bản sắc văn hoá Việt
Chợ nổi Cái Răng Con sông Hậu hiền hòa ôm lấy thành phố Cần Thơ xinh đẹp. Sáng sớm, trời còn chưa kịp hửng nắng, thuyền bè tấp nập kéo về phiên chợ hàng ngày.
Tháng 6, vùng đất Cần Thơ bước vào mùa mưa và cũng là mùa cây trái. Phiên chợ đông đúc bắt đầu từ 5h sáng. Từ khắp mọi nơi trên dòn Hậu Giang, bà con tấp nập đưa thuyền về với chợ nổi Cái Răng, tham gia vào phiên chợ sớm lớn nhất của vùng Tây Nam Bộ. Những chiếc thuyền trở nặng các sản vật và hoa trái đậu san sát trên đoạn sông cách thành phố Cần Thơ 5km.
Vùng đất Nam Bộ với những dòng kênh rạch chạy ngang dọc đã biến giao thông đường thủy trở thành huyết mạch của cả vùng. Không khác một phiên chợ hàng ngày, những người dân chèo ghe, thuyền luồn lách sát nhau. Ngoài hoa quả như hồng xiêm, sầu riêng, thanh long, nhãn, chôm chôm, dứa...còn có các mặt hàng rau quả như bắp cải, chanh, hành tây cùng rất nhiều ghe thuyền bán quà sáng với hủ tiếu, mì hoành thánh, xôi mặn, bánh mì hay đồ uống như cafe, sữa đậu, nước quả...Các thuyền bán vật dụng hàng ngày cũng nằm ngay gần đó. Bán sản vật gì người ta treo sản vật đó (treo bẹo) lên cây sào (cây bẹo) trên mũi thuyền. Vậy là không cần phải rao hàng như các chợ trên đất liền, chỉ cần nhìn trên cây bẹo treo gì là có thể hỏi mua.
Trên miền sông nước của 12 tỉnh miền Tây Nam Bộ, cái xuồng là phương tiện đi lại chủ yếu của mỗi gia đình, giống như chiếc xe đạp, xe máy của người dân ở các thành phố. Phần lớn các xuồng đều gắn máy "đuôi tôm", thỉnh thoảng mới gặp những xuồng trèo tay và thậm chí cả những xuồng trèo bằng... chân một cách điệu nghệ. Trên những con thuyền vừa là nơi bán hàng, vừa là nơi sinh sống, là mái nhà của người dân miền sông nước. Những bông hoa cắm trong lọ bên cửa sổ, vài bộ quần áo phất phơ trong nắng, cậu con trai nhỏ đang nghịch trong khoang, cô vợ vo gạo cuối đuôi tàu còn anh chồng đang hỏi chuyện người chủ tàu bên cạnh về giá cả. Cuộc sống của những con người miền sông nước đơn giản và hòa mình với thiên nhiên bình dị.
9h sáng, mặt trời đã lên cao. Lác đác vài ba con thuyền tách bến, những người đi chợ bằng xuồng cũng trở về nhà.
Từ vài năm nay, chợ nổi Cái Răng đã trở thành điểm đến không thể thiếu khi du khách đến với miền sông nước Hậu Giang này. Bạn có thể thuê một chiếc xuồng hay thuyền riêng ngay tại bến Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ để đến chợ vào buổi sớm. Giá cả dao động từ 50.000 VND đến 200.000 VND.
Tháng 6, vùng đất Cần Thơ bước vào mùa mưa và cũng là mùa cây trái. Phiên chợ đông đúc bắt đầu từ 5h sáng. Từ khắp mọi nơi trên dòn Hậu Giang, bà con tấp nập đưa thuyền về với chợ nổi Cái Răng, tham gia vào phiên chợ sớm lớn nhất của vùng Tây Nam Bộ. Những chiếc thuyền trở nặng các sản vật và hoa trái đậu san sát trên đoạn sông cách thành phố Cần Thơ 5km.
Vùng đất Nam Bộ với những dòng kênh rạch chạy ngang dọc đã biến giao thông đường thủy trở thành huyết mạch của cả vùng. Không khác một phiên chợ hàng ngày, những người dân chèo ghe, thuyền luồn lách sát nhau. Ngoài hoa quả như hồng xiêm, sầu riêng, thanh long, nhãn, chôm chôm, dứa...còn có các mặt hàng rau quả như bắp cải, chanh, hành tây cùng rất nhiều ghe thuyền bán quà sáng với hủ tiếu, mì hoành thánh, xôi mặn, bánh mì hay đồ uống như cafe, sữa đậu, nước quả...Các thuyền bán vật dụng hàng ngày cũng nằm ngay gần đó. Bán sản vật gì người ta treo sản vật đó (treo bẹo) lên cây sào (cây bẹo) trên mũi thuyền. Vậy là không cần phải rao hàng như các chợ trên đất liền, chỉ cần nhìn trên cây bẹo treo gì là có thể hỏi mua.
Trên miền sông nước của 12 tỉnh miền Tây Nam Bộ, cái xuồng là phương tiện đi lại chủ yếu của mỗi gia đình, giống như chiếc xe đạp, xe máy của người dân ở các thành phố. Phần lớn các xuồng đều gắn máy "đuôi tôm", thỉnh thoảng mới gặp những xuồng trèo tay và thậm chí cả những xuồng trèo bằng... chân một cách điệu nghệ. Trên những con thuyền vừa là nơi bán hàng, vừa là nơi sinh sống, là mái nhà của người dân miền sông nước. Những bông hoa cắm trong lọ bên cửa sổ, vài bộ quần áo phất phơ trong nắng, cậu con trai nhỏ đang nghịch trong khoang, cô vợ vo gạo cuối đuôi tàu còn anh chồng đang hỏi chuyện người chủ tàu bên cạnh về giá cả. Cuộc sống của những con người miền sông nước đơn giản và hòa mình với thiên nhiên bình dị.
9h sáng, mặt trời đã lên cao. Lác đác vài ba con thuyền tách bến, những người đi chợ bằng xuồng cũng trở về nhà.
Từ vài năm nay, chợ nổi Cái Răng đã trở thành điểm đến không thể thiếu khi du khách đến với miền sông nước Hậu Giang này. Bạn có thể thuê một chiếc xuồng hay thuyền riêng ngay tại bến Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ để đến chợ vào buổi sớm. Giá cả dao động từ 50.000 VND đến 200.000 VND.
Những thuyền chở rau củ quả ra chợ |
Bạn muốn biết trên thuyền bán gì, hãy nhìn những chiếc bẹo |
Người mua, kẻ bán đều dùng thuyền |
Những ghe thuyền đậu gần nhau |
Toàn cảnh chợ nổi Cái Răng |
Hoa quả mùa nào thức ấy |
Người dân sông nước với mái nhà là những con thuyền |
Thuyền bán khoai lang |
Đồ ăn sáng và đồ uống trên những con thuyền nhỏ |
Bạn có thể mua và ăn ngay những cây trái tươi ngon với giá rẻ |
Phút nghỉ ngơi |
Cậu bé của miền sông nước |
|
Mỗi con thuyền là một ngôi nhà |
Bán quà sáng trên thuyền |
|
Nguồn: Afamily
CoMay- Tổng số bài gửi : 1316
Join date : 14/09/2009
Đến từ : Đất Mẹ
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết
|
|